Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn chữ để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh Lớp 1
Người xưa thường dùng thành ngữ “Văn hay chữ tốt” để khen những học trò giỏi. Rõ ràng từ xưa, chữ viết cũng được coi trọng chẳng kém gì nội dung văn chương. Chữ viết đẹp, dễ xem sẽ gây được thiện cảm cho người đọc. Chữ viết phần nào phản ánh ý thức rèn luyện, óc thẩm mỹ và tính nết người viết.
Hiện nay chất lượng chữ viết được rất nhiều thầy cô và phụ huynh học sinh quan tâm, ngày càng có nhiều học sinh viết chữ đẹp ở các cấp. Song cũng có nơi phụ huynh còn kêu ca, phàn nàn về chữ viết của con em mình. Có những em chữ xấu đến nỗi không thể chấp nhận được. Một vấn đề được đặt ra là: Tại sao các em lại viết xấu đến như vậy? Do thầy cô không biết cách dạy? Do gia đình không quan tâm, bản thân chính học sinh đó không rèn luyện? Đó là những vấn đề đặt ra cần được giải quyết.
Tôi thấy dạy học sinh ở các cấp cuối bậc học viết chữ đẹp đã khó, với học sinh lớp 1 lại càng khó hơn bởi các lý do:
- Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quan đối tượng. Trong khi đó để viết chữ, trẻ phải tri giác cụ thể chi tiết từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật tỉ mỉ. Do vậy khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ, học sinh lớp 1 không tránh khỏi những lúng túng, khó khăn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp rèn chữ để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh Lớp 1
độ tiếp thu khá đồng đều, có nhiều em tiếp thu nhanh, viết chữ khá đẹp. Phụ huynh quan tâm tới việc học tập của các em: mua đủ sách vở, đồ dùng học tập chất lượng cao. Cơ sở vật chất của lớp học đầy đủ; bảng lớp được kẻ đúng quy cách (kẻ theo mẫu vở tập viết); một phần bảng có kẻ ô vuông còn phù hợp cho việc dạy chữ cái, bàn ghế đẹp, kích thước phù hợp với học sinh lớp 1; thiết bị, đồ dùng dạy học phong phú. Nhà trường đã thành lập Ban chỉ đạo “Vở sạch chữ đẹp” có kế hoạch cụ thể trong việc rèn chữ viết và tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp trong giáo viên và học sinh. - Khó khăn: Cách cầm bút của trẻ hầu hết bị sai, các em hay cầm bằng 4 ngón: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út, hoặc ngón cái đề lên ngón trỏViệc cầm bút sai có nhiều nguyên nhân, có khi do bố mẹ các em hay sốt ruột, nóng vội muốn dạy con viết trước ở nhà (4-5 tuổi) mà chưa nắm được cách cầm bút đúng, hoặc có một số giáo viên mầm non chưa chú ý uốn nắn cách cầm bút cho các em khi các em tô chữ. Tư thế ngồi của trẻ chưa đúng: Mắt cách vở thường là 15-20 cm, lưng cong vẹo, ngực tì sát vào bàn. Các em thường viết sai một số nét cơ bản: nét khuyết (). nét cong tròn khép kín ( ) nét móc hai đầu ( ); khoảng các giữa các con chữ chưa đúng (ví dụ: ); vị trí dấu thanh sai ( ). Nhiều em chưa biết viết liền mạch, hay nhấc bút khi viết v.v.. Một số phụ huynh chưa quan tâm tới việc học tập của con em mình. Ở giai đoạn viết bút chì, thường mua cho con loại bút chì cứng nên các em phải ấn bút khi viết, làm giấy có thể bị rách mà chữ không rõ. Một số phụ huynh còn mua vở 5 ly nên học sinh khó xác định độ cao, chữ mẫu và bẩn khi rèn viết trên vở ô ly. Khi chuyển sang viết bút mực, có phụ huynh mua những loại bút quá to, nét đậm, khó viết, mực ra không đều Từ thực trạng chữ viết của học sinh nêu trên tôi đã áp dụng biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 của tôi cũng như một số học sinh lớp trên biết viết chữ đẹp. 2. Các biện pháp: a. Biện pháp thứ nhất: Phân loại học sinh Ngay từ đầu năm học, sau một thời gian nhập học, tôi đã phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ sau: Học sinh viết đúng mẫu chữ, đúng cỡ chữ, có thao tác viết liền mạch, đặt đúng vị trí dấu thanh; đảm bảo tốc độ. Học sinh viết đúng mẫu, đúng cỡ chữ, nhưng chưa đẹp. Học sinh viết quá chậm, viết sai nhiều. Sau mỗi giai đoạn viết chữ: Viết âm, vần, tiếng, từng câu đoạn, tới viết chính tả, tôi tiếp tục phân loại học sinh, tìm hiểu xem trong từng giai đoạn, những em nào còn viết sai, viết chưa đẹp, từ đó có những biện pháp tích cực hơn. b. Biện pháp thứ hai: Hướng học sinh cách cầm bút đúng và tư thế ngồi đúng: Quá trình tập viết có quan hệ tới nhiều bộ phận trong cơ thể của học sinh. Tư thế ngồi viết có quan hệ đến cột sống, đến phổi, lưng. Cách cầm bút có quan hệ tới ngón tay, bàn tay và ngón tay. Việc tập viết không đúng các quy định sẽ để lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh: Mắt cận thị do ngồi viết ở nơi thiếu ánh sáng, cúi đầu sát vở, cột sống cong vẹo, lưng gù, phổi bị ảnh hưởng do ngồi không đúng tư thế. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tập viết, tôi luôn coi trọng việc phối hợp đồng bộ các bộ phận cơ thể. Đặc biệt chú ý sửa triệt để với các em cầm bút sai. Tôi treo bức tranh có em học sinh cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế ở trước lớp để học sinh luôn được quan sát và làm theo. Trước khi cho học sinh viết vào vở, tôi luôn nhắc nhở về tư thế ngồi viết và cách cầm bút hoặc nêu gương những em trong lớp có cách cầm bút đúng và tư thế ngồi đúng. Bài viết đẹp phải kèm với tư thế ngồi đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo viên. Vì thế việc uốn nắn cách cầm bút và tư thế ngồi đúng phải được quan tâm, nhắc nhở thường xuyên không chỉ trong tiết Tập viết, Chính tả mà trong tất cả các tiết học. Những em hay cầm bút sai, viết chưa đẹp được xếp ngồi ở bàn đầu để giáo viên dễ kèm cặp và nhắc nhở. c. Biện pháp thứ ba: Dạy tốt kỹ thuật viết các nét cơ bản, chữ cái và thao tác viết liền mạch (biện pháp trọng tâm) Nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay là điều không thực tế, khó có thể thực hiện được. Trong các tiết Tập viết, tôi luôn chú ý tới kỹ thuật viết cho các em. Trước tiên phải giúp học sinh nắm thật chắc cấu tạo và cách viết các nét cơ bản gồm: Nét khuyết trên: ( ) Nét khuyết dưới: ( ) Nét móc ngược: ( ) Nét móc xuôi: ( ) Nét sổ thẳng: ( ) Nét ngang: ( ) Nét cong hở trái : ( ) Nét cong hở phải: ( ) Nét cong tròn khép kín: ( ) Nét thắt: ( ) Đồng thời tôi cũng giúp học sinh nắm được tên gọi các đường kẻ trong vở Tập viết. Cụ thể tôi quy định với học sinh như sau: Một ô vuông gồm: đường kẻ đậm dưới, đường kẻ ngang mờ thứ nhất, đường kẻ ngang mờ thứ hai, đường kẻ ngang mờ thứ ba, đường kẻ đậm trên và đường kẻ dọc.. Đường kẻ ngang đậm phía dưới. Đường kẻ ngang mờ thứ nhất. Đường kẻ ngang mờ thứ hai. Đường kẻ ngang mờ thứ ba. Đường kẻ ngang đậm phía trên. Việc nắm chắc cách viết các nét cơ bản cũng như biết xác định các đường kẻ sẽ giúp học sinh dễ dàng viết các chữ cái cũng như viết chữ ghi vần, tiếng Ví dụ: khi dạy viết chữ d, tôi hướng dẫn học sinh như sau. Chữ d có cấu tạo là mấy nét? Là những nét nào? Độ cao của mỗi nét là bao nhiêu? Độ rộng là bao nhiêu? Hay so sánh chữ d với chữ a? Cách viết: Từ điểm đặt bút dưới đường kẻ ngang mờ thứ hai, cạnh đường kẻ dọc viết nét cong tròn kép kín cao 2 li, rê bút lên đường kẻ dọc, viết nét móc ngược cao 4 li. Điểm dừng của nét móc ngược ở đường kẻ ngang mờ thứ nhất. Khi hướng dẫn học sinh viết vần, tiếng tôi chú ý kỹ thuật nối liền giữa hai chữ cái với nhau, viết liền mạch để tạo thành một chữ (ghi tiếng) hoàn chỉnh (gồm nhiều chữ cái). Dựa vào những nét cơ bản đã dạy cho học sinh, tôi xin nêu ra một số trường hợp nối liền các chữ cái khi viết như sau: Trường hợp 1: Nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái sau. Trường hợp này nói chung viết bình thường và khá thuận lợi. Ví dụ: Tôi giúp học sinh điều tiết về khoảng cách giữa 2 chữ cái sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mỹ. Ví dụ: (khoảng cách giữa a và n hơi hẹp lại) Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc (hay nét hất) đầu tiên của chữ cái. Ví dụ: Trường hợp này tôi giúp học sinh điều chỉnh về khoảng cách giữa 2 chữ cái (vi dụ: on) hoặc chuyển hướng ở cuối nét cong để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dáng chữ cái vần rõ ràng và khoảng cách đều. Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau. Ví dụ: Trường hợp này tôi lưu ý học sinh: Xác định điểm dừng bút ở chữ cái trước để lia bút viết sang chữ cái sau. Điều chỉnh phần móc của chứ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải. Ví dụ: Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau đây là trường hợp khó; đòi hỏi kỹ thuật lia bút và ước lượng khoảng cách hợp lý. Ví dụ: Tôi giúp học sinh xác định khoảng cách giữa hai chữ cái đều là nét cong nên hơi gần nhau một chút. Khi viết ứng dụng, để đảm bảo tốc độ viết nhanh, tôi hướng dẫn các em viết liền mạch tất cả các chữ cái trong chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu, kể cả dấu phụ của con chữ và dấu ghi thanh. Ví dụ: viết vần “ anh” viết liền mạch “ ” rồi đặt dấu “ ” trên “ ” ( ) để thành “ ” Viết chữ “ mắt ” viết liền mạch, sau đó đặt dấu cho chữ cái “ ă ” và “ t ” rồi đánh dấu sắc “ ¢ ” để thành chữ “ mắt ”. Việc rèn luyện viết các nét cơ bản và kỹ thuật viết liền mạch không chỉ dừng lại ở các tiết Tập viết mà được củng cố xen kẽ trong các tiết học hay luyện tập thêm ở nhà. Tôi yêu cầu học sinh cần viết được nét cong, nét thẳng phải thật thẳng. Tôi chú ý luyện nhiều nhất là nét khuyết bởi nét này có độ cao (hay dài) là 5 li, tay các em còn non yếu nên thường viết run, hoặc chưa đúng mẫu. Đối với những em viết sai, tôi gạch chân dưới chữ và sửa trực tiếp vào chữ đó hoặc viết mẫu bên cạnh. Có giáo viên cho rằng chỉ cần gạch dưới chữ viết chưa đúng để vở đỡ bẩn nhưng thực tế nếu chỉ gạch dưới mà không sửa thì học sinh không thể biết mình viết sai ở nét nào. Vì thế tôi vẫn thường sửa trực tiếp trên nét viết sai hoặc viết lại chữ đó vên cạnh. Việc làm đó giúp các em nhận ra lỗi sai của mình, chú ý sửa để không mắc phải nữa. Ví dụ: Học sinh viết sai chữ và tôi sửa như sau: Điều quan trọng là tôi giúp các em biết cách sửa. Cụ thể hướng dẫn học sinh quan sát chữ mẫu: Nét lượn lên và nét sổ thẳng xuống của nét khuyết trên cắt nhau tại đường kẻ mờ thứ 2. Nét sổ thẳng trùng với đường kẻ dọc, là điểm tựa để viết cho thẳng. Sau đó cho học sinh viết lại chữ đó nhiều lần trên nháp, đến khi thật chuẩn mới thôi. Trong quá trình luyện viết ở ô ly, tôi thường viết mẫu các chữ cái ở đầu dòng, đánh dấu điểm đặt bút (khoảng 3 dòng). Điều này giúp học sinh vừa dễ viết, đảm bảo khoảng cách giữa các chữ cái mà vở lại sạch, đẹp. Tuy nhiên, khi viết vần thì không đánh dấu điểm đặt bút nữa vì các em đã viết quen. d. Biện pháp thứ tư: Chia chữ ra từng loại và rèn luyện dứt điểm. Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi học sinh phải tri giác chính xác sản phẩm, nắm vững các thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các thao tác đó. Mỗi nhóm chữ cái có những đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện các thao tác ở từng nhóm không giống nhau. Mặt khác học sinh lớp 1 không có sự kiên trì, hay nôn nóng, chưa viết chữ này lại muốn viết sang chữ khác. Nếu không chia thành các nhóm chữ thì việc rèn luyện sẽ rất khó khăn. Tôi phân loại thành các nhóm chữ sau: Nhóm 1: gồm các chữ cái: (9 chữ cái). Trọng tâm là luyện nét móc ngược, móc xuôi, móc 2 đầu. Nhóm 2: gồm các chữ cái: Trọng tâm là luyện nét khuyết. Viết được các chữ cái ở nhóm 1 và nhóm 2 thì học sinh viết các chữ cái ở nhóm khác có phần thuận lợi hơn. Nhóm 3: gồm các chữ cái: (15 chữ cái). Loại chữ này nhiều người nghĩ rằng đơn giản nhưng thực tế hầu hết học sinh viết sai chữ O. Tôi đã từng tham khảo ý kiến nhiều giáo viên “chữ O viết thế nào là đúng nhất?”, không ít giáo viên đưa ra cách viết không đúng. Khi dạy chữ O tôi kẻ trên bảng 1 hình vuông, chia hình vuông thành 4 ô vuông bằng nhau, đánh dấu 5 điểm như sau: Dùng phấn màu chấm chấm (.....) thành hình chữ O sau đó tô lại lên các dấu chấm chấm đó. Giáo viên vừa viết vừa hướng dẫn. Học sinh quan sát: Viết được chữ O đẹp, học sinh dễ viết đúng các chữ cái khác trong nhóm 3. Tôi lưu ý học sinh khi viết chữ cái O phải có dấu nhấn với 2 tác dụng: Ghi dấu điểm đặt bút, là điểm thêm “râu” để trở thành chữ “Ơ”, điểm dừng để nối chữ khi viết nhanh. Từ việc phân loại các nhóm chữ trên, tôi giúp học sinh rèn luyện dứt điểm từng nhóm chữ. Mỗi tuần tôi định ra rèn một nhóm chữ nhất định. Tôi luôn chú ý tính vừa sức, rèn chữ từ mức độ thấp đến cao, rèn viết đúng loại chữ này mới chuyển sang rèn lại chữ khác. Đặc biệt tôi không nôn nóng, luôn chú ý rèn cho học sinh tình kiên trì và lòng say mê rèn luyện. e. Biện pháp thứ 5: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học và phương tiện, đồ dùng học tập của học sinh: Đồ dùng dạy học là phương tiện không thể thiếu được trong giảng dạy, nhất là phần môn Tập viết, tôi khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích cấu tạo, hình dáng, kích thước chữ mẫu, tìm sự giống nhau và khác nhau giữa chữ cái đang học với chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm. Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Tôi sử dụng các hình thức chữ mẫu: Chữ mẫu in sẵn phóng to, chữ mẫu trong vở tập viết, chữ mẫu của giáo viên trên bảng... Chữ mẫu phong to trên bảng giúp học sinh dễ quan sát, phân tích hình dáng. kích thước các nét cơ bản cấu tạo chữ cái. Chữ mẫu của giáo viên trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh. Do vậy, khi viết mẫu, tôi thường viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ, tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay giáo viên viết từng nét chữ trên bảng lớp. Bên cạnh đó, chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì thế khi nhận xét bài, ghi sổ liên lạc, học bạ cho học sinh tôi luôn có ý thức viết đúng mẫu, rõ ràng và đẹp. Việc học sinh tập viết chữ trên bảng lớp luôn được tôi quan tâm. Điều đó giúp tôi kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này tôi thường dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước hướng dẫn cách viết chữ. Qua đó dễ phát hiện chỗ sai của học sinh, từ đó uốn nắn kịp thời. Bên cạnh đó, việc cho học sinh viết chữ trên bảng con trước khi tập viết vào vở là điều tôi vẫn làm thường xuyên bởi tất cả học sinh đều được viết, biểu tượng chữ cái được khắc sâu dễ phát hiện những lời sai chung nhiều em mắc phải, có điều kiện để động viên nhiều em viết đẹp. Với mỗi bài viết, tôi có mẫu trình bày bảng con từng nội dung (âm, vần, tiếng, từ) để học sinh nhìn vào đó và viết theo. Tôi vẫn thường cho học sinh viết cả trên hai mặt bảng. Ví dụ: Khi dạy viết chữ nh: sau phần hướng dẫn của giáo viên, tôi đưa ra mẫu bảng con cho học sinh quan sát rồi cho viết chữ “nh” trên mặt bảng có ô vuông to để học sinh nắm chắc độ cao, độ rộng và nét nối, khoảng cách giữa chữ cái n và h. Khi chuyển sang viết từ “nhà lá”, tôi cho học sinh viết ở mặt bảng có đường kẻ nhỏ để học sinh viết đủ số chữ và đảm bảo khoảng cách giữa các chữ cái. Tôi hướng dẫn học sinh lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, lau sạch tay khi viết vở. Tôi hướng dẫn học sinh không dùng loại phấn quá cứng hoặc quá bở, có nhiều sạn vì dùng loại phấn này các em viết chữ rất vất vả mà chữ lại không đẹp. Khăn lau bảng cần đủ độ ẩm, gấp lại nhiều lần, độ dày thích hợp để học sinh dễ cầm và xóa bảng thuận lợi. Một yếu tố rất quan trọng là bút viết của học sinh. Qua một vài tuần cho học sinh tập viết bằng bút chì, tôi thấy các em ấn bút mạnh nên bút hay gãy hoặc tù đầu. Vì thế tôi đã yêu cầu phụ huynh học sinh chuẩn bị cho các cháu từ 2-3 chiếc bút chì đã vót sẵn, đầu chì không quá nhọn, quá tù, để các em có bút viết ngay khi bút bị gãy, không phải đợi cô giáo viết cho, lớp học không bẩn, không mất vệ sinh. Khi chuyển sang giai đoạn viết mực, tôi cũng tư vấn cho phụ huynh mua bút máy, loại không có đầu bi tròn vì viết những loại bút có đầu bi tròn học sinh khó kiểm soát được nét chữ, chữ quá nhọn hoặc quá nhỏ. Thân bút phải vừa với kích thước của bàn tay các em. Mực viết phải không loãng, không có cặn, tốt nhất là mực “QUEEN” mà trên thị trường vẫn bán, không dùng nhiều màu mực. Khi học sinh viết bút máy, tôi giúp các em cầm bút sao cho mực ra đều, nét đẹp, chú ý không cầm nghiêng ngòi. Để giúp các em có được những quyển vở sạch, đẹp tôi yêu cầu phụ huynh mua cho các em cặp sách có 2-3 ngăn, không dùng ba lô hay túi vải, nilông. Bởi nếu để sách, vở vào ba lô, túi, sách vở thường bị nhàu, quăn mép, rách, rất bẩn. Hướng dẫn các em cách sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập một cách khoa học trong cặp sách, lưu ý học sinh chỉ mang sách, vở theo thời khóa biểu trong ngày. Sách, vở cũng được tôi yêu cầu bọc nilông và dán nhãn vở ngay từ đầu năm học, nó giúp học sinh có ý thức giữ gìn sách vở cẩn thận hơn. Trong các tiết học, tôi rất chú ý giúp học sinh cách trình bày bài cân đối, kể cả kỹ năng kẻ vở. Một chi tiết rất nhỏ nhưng tôi rất quan tâm, đó là trong hộp bút các em luôn có giấy thấm mực. Trước khi đặt bút viết, cần lấy giấy thấm lau sạch ngòi rồi mới viết. Nên chọn loại vở có giấy dày, trơn, dòng kẻ rõ. Khi học sinh viết sai, hướng dẫn học sinh không tẩy xoá mà dùng bút chì gạch chân dưới chữ đó rồi viết tiếp hoặc sửa lại ra lề vở. Tôi chỉ cho học sinh viết chữ trong điều kiện lớp học đủ ánh sáng g. Biện pháp thứ sáu: Tổ chức các hình thức học tập phong phú và các phong trào thi đua. Trong các tiết học viết chữ, tôi vẫn thường sử dụng các hình thức như thảo luận nhóm (để nêu cấu tạo của chữ); thi viết đúng chữ mẫu, thi viết nhanh và đẹp thi viết tiếp sức...Với các hình thức này học sinh rất sôi nổi, hào hứng, giờ học có hiệu quả bởi em nào cũng muốn được khen là mình viết chữ đẹp nhất. Kết hợp với nhà trường tổ chức tốt các cuộc thi viết chữ đẹp theo các đợt thi đua. Sau mỗi lần thi, tôi phát hiện và bồi dưỡng những em có năng khiếu viết chữ đẹp, giúp những em viết chưa đẹp cho đẹp lên. Tôi luôn động viên, khen ngợi các em khi tiến bộ. Những em viết đẹp thường được cô giáo cho xem bài trước lớp. Khi chấm bài tôi vẫn thường hay nhận xét: “Con rất đáng khen” hoặc “Con tiến bộ rất nhanh”, “Con giỏi lắm” để động viên các em. Tôi luôn kết hợp chặt chẽ với BCH hội phụ huynh lớp khen thưởng kịp thời cho các em đạt giải trong các cuộc thi viết chữ đẹp. Vì thế các em càng phấn khởi, quyết tâm rèn chữ cho đẹp hơn. Tổ chức trưng bày, triển lãm những bài viết, những quyển vở sạch, đẹp trong lớp. Tôi vẫn thường để vở trong ngăn tủ kính để hàng ngày học sinh được quan sát, ngắm nhìn và học tập theo. Trong mỗi tháng, tôi thường chấm và xếp loại VSCĐ ở tất cả các loại vở, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thường xuyên. h. Biện pháp thứ bảy: Bồi dưỡng cho học sinh say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết. Tôi vẫn thường nghĩ rằng: “Bất cứ việc gì, nếu có tâm huyết, lòng kiên trì, say mê thì dù khó khăn đến đâu cũng sẽ đạt được kết quả cao ”. Để bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết, tôi vẫn: - Thường xuyên kể cho các em nghe những câu chuyện thời xưa như ông Cao Bá Quát đã luyện chữ như thế nào? Nêu những tấm gưong viết chữ đẹp được đăng trên các báo hay chính những tấm gưong viết chữ đẹp trong lớp, trong trường. Tôi vẫn thường cho học sinh xem vở luyện chữ của tôi để các em học tập. Bên cạnh đó cũng nêu những hậu quả của việc viết chữ xấu. - Giúp học sinh có ý thức rèn viết chữ đẹp trong tất cả các môn học. Điều đó đã khơi gợi ở các em lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết. Qua một năm giảng dạy, tôi nhận thấy chương trình mới có nhiều ưu việt hơn chương trình cũ, học sinh tiếp thu bài tốt hơn, chất lượng hơn, đặc biệt mẫu chữ hiện hành rất đẹp, có tính thẩm mỹ cao. Cuối năm học này học sinh lớp tôi đã viết chữ rất đẹp, đồng đều ở các môn. Các em đã nắm chắc kỹ thuật viết các nét, các chữ cái, kỹ thuật viết liền mạch, đảm bảo tốc độ theo quy định. Đặc biệt các em rất say mê luyện chữ không chỉ trong tiết tập viết chính tả mà còn trong tất cả các tiết học. IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN; Trên đây là một số biện pháp tích cực giúp học sinh lớp 1 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung biết giữ vở sạch và viết chữ đẹp. Trong phạm vi bài viết này tôi xin đưa ra một số điểm lưu ý sau: - Giáo viên luôn cần phải quan tâm, gần gũi với các em, coi học sinh như con em của mình, coi việc rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người. - Bản thân giáo viên phải thường xuyên rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, phải có đức tính kiên trì, tận tâm. Giáo viên phải có kỹ năng viết chữ thành thạo, phải có khả năng viết chữ mẫu đúng và đẹp bởi chữ viết của thầy cô để lại một ấn tượng và kết quả lâu dài đối với nhiều thế hệ học sinh. - Giáo viên phải tạo được tâm lý phấn chấn vui vẻ cho học sinh trong mỗi tiết học để các em lĩnh hội và thể hiện chữ viết nhanh và đẹp hơn. 2. KHUYẾN NGHỊ: - Có kế hoạch rèn chữ trong từng tuần, tháng theo mức độ từ thấp đến cao. Động viên khuyến khách học sinh kịp thời, nhận xét sửa lỗi rõ ràng, cụ thể. Tôi tin rằng làm tốt các việc trên là góp phần rèn luyện tính cách cho học sinh, đúng như bác Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bài vở của mình”. Tôi rất mong nhận được sự chỉ đạo, đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, BGH cùng các đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn./. Hà Nội, ngày 6 tháng 4 năm 2017 T«i xin cam ®oan ®©y lµ s¸ng kiÕn kinh nghiÖm do m×nh viÕt kh«ng sao chÐp néi dung cña ngêi kh¸c.
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_ren_chu_de_nang_cao_chat.doc