Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh Lớp 1 giải toán có lời văn

Chương trình toán của Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn và một số yếu tố hình học đơn giản.

Môn Toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.

Môn Toán có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con ngừoi. Môn Toán là “chìa khóa” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy môn Toán là bộ môn không thể thiếu trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin vào sự phồn vinh của quê hương đất nước.

 

doc 25 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh Lớp 1 giải toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh Lớp 1 giải toán có lời văn

Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh Lớp 1 giải toán có lời văn
òi giải toán.
Ví dụ: Một sợi dây dài 16cm, đã cắt đi 5cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
16cm
?cm
5cm
Sơ đồ:
a. Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần:
- Phần đã cho biết còn gọi là giả thiết của bài toán.
- Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài toán.
Ngoài ra, trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm hay thực chất là mối tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của bài toán.
b. Quy trình của bài toán có lời văn thường thông qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Việc tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc đề toán (dù bài toán cho dưới dạng bài toán hoàn chỉnh hoặc dạng tóm tắt, sơ đồ). Học sinh cần đọc kĩ, hiểu rõ bài toán cho biết cái gì, cho biết điều kiện gì, và đặc biệt là bài toán hỏi gì?
Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào học sinh chưa hiểu rõ thì tôi hướng dẫn học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài toán đang làm. Sau đó học sinh thuật lại bài toán bằng lời vắn tắt mà không cần đọc lại nguyên vẹn bài toán.
Ngay từ những ngày đầu học toán, tôi rất chú ý tập cho học sinh thói quen tự tìm hiểu bài toán và hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề đã vội vàng bắt tay vào giải ngay. Bằng hệ thống câu hỏi, tôi thường giúp học sinh hiểu rõ mỗi bài toán đều gồm có 2 bộ phận:
- Bộ phận thứ nhất là: “những điều kiện đã cho” (dữ kiện)
- Bộ phận thứ hai là: “cái phải tìm” (câu hỏi)
Muốn tìm được bất cứ bài toán nào học sinh cũng phải xác định cho đúng hai bộ phận ấy.
Trong quá trình tìm hiểu đề toán, tôi thường hướng sự tập trung suy nghĩ của học sinh vào một số từ khá quan trọng như “thêm”, và tất cả” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại”
Đặc biệt tôi thường giúp học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của bài toán, những gì không thuộc bản chất bài toán để hướng sự suy nghĩ của mình vào những chỗ cần thiết.
Ví dụ: Nhân ngày 8 tháng 3, Hồng và Hoa cắt hoa tặng bà và mẹ. Hồng cắt đươc 10 bông hoa, Hoa cắt được 8 bông hoa. Hỏi cả hai bạn cắt được bao nhiêu bông hoa?
Học sinh chỉ cần chú ý tới “Hồng cắt 10 bông hoa, Hoa cắt 8 bông hoa”, không cần quan tâm đến số chỉ thời gian “ngày 8 tháng 3 mà Hồng và Hoa cắt hoa tặng bà và mẹ”.
Thời kỳ đầu tôi thường giúp học sinh tìm hiểu bài bằng đàm thoại “Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Dựa vào câu trả lời để học sinh tóm tắt bài toán. Sau đó dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách tốt nhất để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán.
Bước 2: Tìm cách giải
Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác định mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. Hoạt động này diễn ra như sau:
* Minh họa bài toán bằng tóm tắt để toán có thể dùng lời một ngắn gọn và đầy đủ nhất hoặc dùng sơ đồ, mẫu vật, tranh vẽ
Ví dụ bài toán sau: “Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà An có tất cả bao nhiêu con gà?”.
Đầu tiên tôi cho học sinh đọc kĩ đề bài nhấn mạnh các từ ngữ quan trọng như Có 5 con gà, thêm 3 con gà, tất cả bao nhiêu con gà
Sau đó tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng các câu hỏi như sau (vừa hỏi giáo viên vừa ghi bảng tóm tắt của bài toán, còn học sinh dùng thước kẻ và bút chì gạch chân vào SGK)
	GV ghi bảng
	- Có mấy con gà? (5 con)	- Có	: 5 con
	- Thêm mấy con gà? (3 con)	- Thêm	: 3 con
	- Bài toán hỏi gì? (tất cả)	- Tất cả	: ? con 
	Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán tôi hướng dẫn học sinh:
Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực hiện các phép tính số học bằng việc đi từ câu hỏi của bài toán đến số liệu hoặc ngược lại đi từ số liệu đến câu hỏi của bài toán. Ví dụ, ở bài toán trên ta có thể xuất phát từ câu hỏi của bài toán đến các dữ kiện:
Bài toán hỏi gì? (Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?)
Muốn tìm xem tất cả có bao nhiêu con gà thì phải làm tính gì? (Phải làm tính cộng 5 + 3)
Bước 3: Thực hiện cách giải bài toán
Giải bài toán.
Học sinh phải trình bày giải toán theo trình tự
- Viết câu lời giải
- Viết phép tính
- Viết đáp số
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch giải toán và trình bày bài giải. Mỗi bài đều có câu lời giải, phép tính, đáp số.
Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp các em cần nhận thức được cái gì đã cho, cái gì phải tìm, mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán, việc lựa chọn phép tính thích hợp đối với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào tranh minh họanhằm làm cho các em hiểu khái niệm “thêm” với phép cộng, khái niệm “bớt” với phép trừ.
Không phải ngay từ đầu, học sinh đã làm quen với cách giải này, để giúp học sinh nắm vững bước giải tôi giúp học sinh nắm vững bài toán mẫu, làm nhiều bài toán tương tự ở các tiết hướng dẫn học và đặc biệt luôn chú ý chữa bài cẩn thận để học sinh tự phát hiện lỗi sai của bạn cũng như trong bài làm của mình. Từ đó, học sinh tự hoàn thiện bài giải của mình theo các bước quy định. Ngoài ra, cần khắc sâu cho học sinh ở mỗi bước giải cần lưu ý điều gì. Chẳng hạn: Khi viết lời giải phải dựa vào câu hỏi (đối với lời giải liên quan đến số đo độ dài, chỉ cần nêu..dài là:)
Phải chú ý tên đơn vị của bài toán (đặc biệt là đơn vị đo độ dài).
Chú ý cách trình bày bài toán (tên đơn vị ở phép tính phải cho vào trong ngoặc đơn, tên đơn vị ở đáp số không viết ngoặc đơn)
Để giúp học sinh khắc phục các thiếu sót đó, giáo viên cần chú ý:
+ Giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt: đọc, viết đúng.
+ Luyện cho các em nói đúng trước khi trình bày bài giải.
Ba cộng bốn bằng bảy con gà
+ Cho học sinh luyện tập tính nhẩm và tính các phép tính đúng (kỹ năng nhẩm và kỹ năng đặt tính)
+ Thường xuyên uốn nắn, sửa sai lầm, thiết sót của học sinh trong việc viết phép tính giải và động viên khuyến khích, nêu gương các em viết đúng.
a. Hướng dẫn học sinh viết lời giải.
Trong thực tế hướng dẫn học sinh đặt câu, lời giải rất khó khăn (thậm chí còn khó hơn nhiều việc chọn phép tính và tính ra đáp số)
Do vậy để chuẩn bị từ xa cho việc dạy học sinh viết câu lời giải, sau các bài tập nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống, tôi thường đặt thêm cho trẻ những câu hỏi để các em có thể trả lời miệng.
Ví dụ 1: Viết phép tính thích hợp.
Từ bức tranh có 4 con gà trong chuồng, thêm 3 con gà nữa vào đó. Sau khi học sinh điền tiếp tính vào dãy ô trống:
4
+
3
=
7
Tôi thường hỏi tiếp:
- Vậy có tất cả mấy con gà? (có tất cả 7 con gà)
Hoặc “Số gà có tất cả là bao nhiêu con?” (Số gà có tất cả 7 con)
Cứ làm như vậy nhiều lần học sinh sẽ quen dần với cách nêu trả lời bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được ngay câu trả lời sau này.
Khi hướng dẫn học sinh đặt câu, lời giải tôi thường hướng dẫn học sinh phải dựa vào câu hỏi.
Ví dụ 2: Hà có 6 bông hoa. Mi có 4 bông hoa. “Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy bông hoa?”.
- Cách 1: Bỏ bớt từ đầu tiên “hỏi” và cụm từ “mấy bông hoa” để có câu lời giải “Cả hai bạn có tất cả là”.
- Cách 2: Bỏ từ “hỏi” thay từ “mấy” bằng “số”, “thay dấu”, bằng từ “là” và dấu “:” để có câu lời giải: “Cả hai bạn có số bông hoa là”.
- Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là “cốt câu: lời giải rồi thêm chút ít. Chẳng hạn: Dòng cuối cùng của tóm tắt “Có tất cả bông hoa?”, học sinh viết câu lời giải “Có tất cả số bông hoa là:”.
- Cách 4: Sau khi học sinh phân tích đề và đã tìm ra kết quả (chẳng hạn: 
4 + 6 = 10 (bông hoa). Tôi hỏi: “10 bông hoa này là của ai? (là số hoa của cả hai bạn).
Từ câu trả lời này giúp các em sửa thành câu lời giải: “Số hoa của hai bạn là:”.
Hay: “Hà và Mi có số hoa là:”
Hay: “Tất cả có:”
Hay: “Số hoa có tất cả là:”
Tôi thường khuyến khích các em nghĩ ra nhiều cách đặt câu lời giải khác nhau nhưng phải biết lựa chọn câu hỏi giải ngắn gọn và đủ ý nhất để viết vào phần lời giải.
* Ngoài ra, học sinh hay rập khuôn máy móc, cứ câu hỏi phải có từ “hỏi” nên khi viết câu lời giải lúng túng không biết bắt đầu từ đâu. (Ví dụ: Hãy tính xem cả hai bạn có mấy bông hoa). Để tránh tình trạng này, đôi khi tôi ra những bài toán bị khuyết từ “hỏi” ở bộ phận thứ hai chẳng hạn.
Ví dụ 1: Một thanh gỗ dài 10cm, bố em cưa bớt đi 2cm. Hãy tính xem thanh gỗ còn lại dài mấy cm?
Ví dụ 2: Tổ một có 12 bạn, tổ hai có 13 bạn. Số bạn của cả hai tổ là bao nhiêu?
Trong hai ví dụ trên, học sinh đều phải tuân thủ việc đọc kỹ đề bài, xác định bài toán cho biết gì và cái phải tìm là gì?
ở ví dụ 1: Cái phải tìm là “độ dài thanh gỗ còn lại” hay “số cm còn lại của thanh gỗ”. Vậy cụm từ “hãy tính xem” là thay cho từ “hỏi”, chính là yêu cầu của bài toán, từ “mấy” là từ hỏi về số lượng cái phải tìm.
Do vậy khi viết câu lời giải có thể là:
“Thanh gỗ còn lại dài là:” (bỏ cụm từ: “hãy tính xem”)
Hoặc: “Số cm còn lại của thanh gỗ là:”
Hay: “Độ dài của thanh gỗ còn lại là:”
ở ví dụ 2: Học sinh phải xác định được cái phải tìm là số bạn của cả hai tổ và dấu hiệu cấu thành câu hỏi đó là từ “bao nhiêu” (là từ dùng để hỏi) và “dấu”?
Vậy học sinh phải dựa vào câu hỏi “Cả hai tổ có bao nhiêu bạn?” để khi viết câu lời giải bỏ từ “bao nhiêu” thay bằng “số”, thay dấu “?” bằng từ “là” để có câu lời giải: “Cả hai tổ có số bạn là:”
Hoặc: “Số bạn của cả hai tổ là:”.
* Tóm lại: Muốn viết đúng câu lời giải phải dựa vào câu hỏi. Bỏ bớt hoặc thêm một ssô từ để thành câu lời giải đúng. (Cần chú ý đến dấu hiệu ở bộ phận thứ hai của bài toán (những từ dùng để hỏi, dấu?).
Đối với học sinh lớp 1, thì việc nêu lời giải của bài toán là tương đối khó. Vì vậy để dễ dàng hơn và để tạo thói quen trả lời đầy đủ thì trong mỗi tiết học toán hay bất kì tiết học nào tôi cũng luôn hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi một cách đầy đủ nhất. Điều này vô cùng quan trọng vì trong khi giải toán có lời văn học sinh nêu được câu hỏi của bài toán thì mới có thể nêu được lời giải của bài toán. Tuy nhiên, tôi không áp đặt học sinh làm theo ý mình mà luôn khuyến khích học sinh nêu câu lời giải theo sự hiểu biết của mình.
Vậy để viết được lời giải phụ thuộc vào câu hỏi. Câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện, mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng những dữ kiện như nhau có thể đặt câu hỏi khác nhau, do đó việc lựa chọn phép tính cũng sẽ khác. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Nhưng trẻ em ở giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Muốn vậy có thể dùng một số biện pháp thường xuyên gợi cho em phân tích đề toán để xác định cái đã cho, cái phải tìm, các dữ kiện của bài toán, câu hỏi của bài toán.
b) Hướng dẫn chọn và viết phép tính.
Sau khi học sinh biết chọn và viết câu lời giải, phần tiếp theo của bài giải là biết chọn và viết phép tính.
Khi chọn phép tính giải, dĩ nhiên phải sau khi học sinh tìm hiểu kỹ đề toán, đã xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm.
Chẳng hạn:
- Bài toán cho biết gì (Mẹ có 20 cái bát)
- Còn cho biết gì nữa? (Mẹ mua 10 cái nữa)
- Bài toán hỏi gì? (Mẹ có tất cả bao nhiêu cái bát)
Tôi hỏi tiếp: “Muốn biết mẹ có tất cả bao nhiêu cái bát em làm tính gì? (tính cộng)
“Mấy cộng mấy?” (20 + 10)
Hoặc: “Mẹ có tất cả bao nhiêu cái bát?” (30)
Con làm thế nào để được 30? (20 + 10 = 30)
Tới đây tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp: Số 20 chỉ gì? (Số bát)
Nói: “20 này chỉ số bát” nên ta viết “cái bát” vào trong ngoặc đơn: 20 + 10 = 30 (cái bát)
+ Hướng dẫn trình bày: Để cho bài giải sáng sủa, dễ nhìn nên ta viết phép tính lùi vào 1 ô so với câu lời giải. Với phép tính thì đơn vị phải để trong ngoặc đơn ()
+ Khi chọn phép tính giải đặc biệt lưu ý tới những từ khá quan trọng như “thêm, bớt, cho, biếu, tặng, tất cả, còn lại” kết hợp suy nghĩ kỹ để hiểu ý nghĩa (bản chất) của bài toán. Có vậy mới lựa chọn chính xác phép tính để có đáp số đúng.
c. Hướng dẫn học sinh viết đáp số:
Để hoàn chỉnh bài toán, sau khi đã viết câu lời giải, viết phép tính và tìm ra kết quả bài toán, cuối cùng là viết đáp số.
Học sinh phải hiểu đáp số chính là ghi kết quả cuối cùng của bài toán. Để tránh tình trạng học sinh ghi lại số đã biết của bài toán (trong thực tế đã có như vậy). Khi ghi phần đáp số của bài toán tôi hỏi học sinh, chẳng hạn:
- Bài toán hỏi gì? (mẹ có tất cả bao nhiêu cái bát?)
- Các con đã tìm ra kết quả mẹ có bao nhiêu cái bát? (30 cái bát).
Vậy đáp số phải ghi lại số bát tìm được là “30 cái bát
Làm như vậy, học sinh không thể nhầm lẫn số đã cho ở đầu bài với kết quả của bài toán.
Như vậy “đáp số” là ghi kết quả cuối cùng của bài toán. Phải dựavào câu hỏi để có đáp số đúng với yêu cầu của bài toán. Khi viết đáp số, đơn vị không phải viết trong ngoặc.
Ví dụ 1: Nhà An nuôi 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con gà nữa. Hỏi nhà an nuôi tất cả mấy con gà?
Ta có bài giải hoàn chỉnh sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả số con gà là:
5 + 3 = 8 (con gà)
Đáp số: 8 con gà
Ví dụ 2: Lớp Một trồng được 35 cây.Lớp Hai trồng được 50 cây.Hỏi cả hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây?
Giáo viên nêu đề toán và hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán:
- Bài toán cho biết gì? (Lớp Một trồng 35 cây, lớp hai trồng 50 cây)
- Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây?)
- Học sinh nêu tóm tắt bằng lời, giáo viên ghi lên bảng, chẳng hạn:
Lớp Một 	: 35 cây
Lớp Hai	: 50 cây
Cả hai lớp	: .cây?
- Muốn biết cả hai lớp trồng được bao nhiêu cây, ta làm tính gì?
( ta lấy số cây của lớp Một cộng với số cây của lớp Hai).
- Học sinh tự giải bài toán rồi chữa bài.
Ví dụ 3: Nhà An có 9 con gà. Mẹ đem bán đi 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại mấy con gà?
- Giáo viên đọc bài toán, rồi đặt các câu hỏi sau:
+ Có tất cả mấy con gà? (9 con)
+ Đã bán đi mấy con gà (3 con)
+ Bài toán hỏi gì? (Nhà An còn lại mấy con gà?)
- Học sinh nêu tóm tắt bài toán (bằng lời), giáo viên ghi lên bảng.
- Giáo viên nêu câu hỏi về chọn phép tính: có 9 con gà, bán đi 3 con gà. Muốn tìm xem còn lại mấy con gà thì phải làm tính gì?
-Giáo viên hướng dẫn cách trình bày bài giải: Câu trả lời, phép tính đáp số.
- Giáo viên nhấn mạnh: Muốn tìm phần còn lại thì phải dùng phép tính trừ.
Bài giải
Số con gà còn lại là:
9 – 3 = 6 (con gà)
Đáp số: 6 con gà
C
B
A
9 bạn
5 nữ
? nam
Ví dụ 4: Tổ em có 9 bạn trong đó có 5 bạn nữ. Hỏi tổ em có mấy bạn nam?
Giáo viên cần dựa vào hình vẽ minh họa
 bài toán, làm cho học sinh hiểu rằng: ở đây ta
có tổng thể (9 bạn) đã biết, tổng thể này gồm
hai bộ phận: một bộ phận đã biết (5 bạn nữ)
và một bộ phận chưa biết (bao nhiêu bạn nam).
Như vậy để tìm bộ phận chưa biết, cần lấy tổng
thể trừ đi bộ phận đã biết.
Trên sơ sở đó hướng dẫn học sinh tóm tắt đề như sau:
9 bạn
Nữ: 5 bạn
Nam: ? bạn
Tương tự các bước hướng dẫn giải toán, bài giải của học sinh như sau:
Bài giải
Số bạn nam tổ em có là:
9 – 5 = 4 (bạn)
Đáp số: 4 (bạn)
* Giải toán với 1 đại lượng ẩn.
Ví dụ 5: Nhà em có 20 cái bát. Mẹ mua thêm 1 chục cái bát nữa. Hỏi nhà em có tất cả bao nhiêu cái bát?
ở dạng toán này giáo viên cùng học sinh tìm hiểu bài toán. Tuy nhiên khi yêu cầu học sinh giải giáo viên lưu ý hướng dẫn học sinh quy đổi 1 đại lượng trong bài toán cho đồng nhất.
trước khi tiến hành giải bài toán học sinh phải có bước đổi đơn vị.
1 chục = 10
Sau đó học sinh giải, sử dụng số vừa đổi
Bài giải
Nhà em có tất cả số cái bát là
20 + 10 = 30 (cái bát)
Đáp số: 30 cái bát
4. Một số dạng bài tập nâng cao dành cho học sinh giỏi.
Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán cơ bản thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt qua khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc có công thức. Qua đó phát triển trí thông minh cho học sinh. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số dạng toán nâng cao mà tôi đã dạy trong các tiết học tăng cường.
- Các bài toán được giải bằng phép tính cộng.
Dạng 1: An cho Bình 4 viên bi, Hùng cho Bình 5 viên bi. Hỏi Bình được hai bạn cho bao nhiêu viên bi?
Dạng 2: Bình cho Dũng 4 viên kẹo thì Bình còn lại 12 viên kẹo. Hỏi Bình có tất cả bao nhiêu viên kẹo?
- Các bài toán giải bằng suy luận:
Dạng 1: Dũng có 25 viên bi, Minh có 27 viên bi. Toàn có nhiều bi hơn Dũng nhưng lại ít hơn Minh. Hỏi Toàn có bao nhiêu viên bi?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm một số lớn hơn 25 và bé hơn 27.
Số đó là 26 vì 25 < 26 < 27
Vậy Toàn có 26 viên bi.
Dạng 2: Toàn có một số bi xanh và bi đỏ. Biết rằng số bi của Toàn bé hơn 10, số bi đỏ hơn số bi xanh là 7 viên. Hỏi Toàn có bao nhiêu viên bi đỏ, bao nhiêu viên bi xanh.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào những dữ kiện của bài toán cho biết:
+ Số bi của Toàn bé hơn 10. Vậy Toàn có nhiều nhất 9 viên bi.
+ Bi đỏ hơn bi xanh là 7 viên, vậy bi đỏ có 8 viên
+ Số bi xanh là 9 – 8 = 1 viên
Vậy Toàn có 1 viên bi xanh, 8 viên bi đỏ.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài “Hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn” tôi thấy việc học sinh biết đọc kỹ đề toán, phân tích đề, tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố toán học, lược bỏ những cái rườm rà có trong bài toán đã giúp các em biết giải toán dễ dàng hơn và không nhầm lẫn đáng tiếc những sai sót nhỏ trong học toán.
Đặc biệt đã khắc phục được tình trạng ghi nhớ máy móc khi giải toán. Tư duy của các em cũng sắc bén, linh hoạt hơn. Từ đó các em thấy bình tĩnh, tự tin, thích học toán và đã giải toán thành thạo hơn, ít nhầm hơn.
Trong đợt kiểm tra cuối học kì I, kết quả đạt như sau:
Sĩ số: 61 học sinh
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
22= 36%
31 = 51%
8 = 13%
C. Kết luận
Qua kết quả thu được nêu trên, tôi thấy ràng để học sinh nắm vững việc giải bài toán có lời văn mỗi giáo viên cần làm được những việc sau:
1. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài, tóm tắt hoặc quan sát kĩ tranh, sơ đồ bài toán.
2. Giúp học sinh xác định mối quan hệ giữa phần được biết và phần hỏi của bài toán.
3. Giúp học sinh tóm tắt bài toán để học sinh tự lược bớt yếu tố “lời văn” để lộ rõ mối quan hệ giữa các dữ kiện có trong bài.
4. Học sinh phải xác định được câu hỏi của bài toán từ đó đưa ra được lời giải một cách chính xác và đầy đủ nhất.
5. Luôn nhắc nhở học sinh trình bày bài toán có lời văn như cách ghi lời giải, phép tính, đáp số.
6. Có thể hướng dẫn học sinh kiểm tra lại kết quả bằng cách ghép câu trả lời với đáp số của bài.
Qua thực tế giảng dạy môn toán ở trường tiểu học nói chung và lớp Một nói riêng, tôi thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, rèn luyện tốt phát sinh suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế. Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò chơi, đố vui phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
“Lấy học sinh để hướng vào giảng dạy, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc giải toán”.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một, tôi thấy học sinh nắm chắc kiến thức, hiểu sâu dạng toán và hứng thú say mẹ học tập. Thông qua cách trình bày lời giải, các em tin tưởng vào học toán nhiều hơn. Điều đó góp phần vào nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học đặc biệt là ở lớp Một.
Cuối cùng tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thanh Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do mình viết không sao chép nội dung của người khác
Nhận xét của hội đồng xét duyệt 
sáng kiến kinh nghiệm

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_lop_1_giai_toan_co_loi.doc