Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học ở phân môn Địa Lí ở Lớp 4

 Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh thì phương pháp dạy học thực sự rất hữu hiệu giúp GV chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp HS chủ động, tích cực trong học tập và đạt các mục tiêu dạy học ở tất cả các môn học nói chung và phân môn Địa lí trong chương trình lớp 4 nói riêng.

 Phân môn Địa lí là một môn học mới trong chương trình Tiểu học lớp 4, có phạm trù rộng lớn và có tính thực nghiệm. Nó không chỉ dừng lại ở việc mô tả các sự vật hiện tượng địa lí trên bề mặt Trái đất mà còn giải thích, phân tích, so sánh tổng hợp các yếu tố địa lý cũng như giúp HS thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đồng thời nó còn giáo dục các em việc phát hiện, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lí nhằm góp phần tích cực vào việc xây dựng kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ an ninh của Tổ quốc.

 Qua thực tế nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, trong đó có phân môn Địa lí, tôi nhận thấy nhiều giáo viên và HS còn cho rằng phân môn Địa lí là môn phụ, môn học thuộc lòng, chỉ cần cho các em tìm hiểu kiến thức thông qua các câu hỏi trong SGK và cho HS đọc nhiều lần để rút ra kết luận của bài học. Với phương pháp dạy học như vậy dẫn đến các em có thói quen ghi nhớ kiến thức máy móc. Chính vì thế việc ghi nhớ các kiến thức của các em không lâu bền, các em dễ nhầm lẫn các kiến thức với nhau.Quan trọng hơn là phương pháp học như vậy không phát huy tính tích cực học tập của từng học sinh, giáo viên không phân hóa được đối tượng trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó Địa lí cũng là phân môn mới mẻ có nhiều kiến thức trừu tượng với HS lớp 4 nên các em cũng gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận môn học.

 

docx 17 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 7720
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học ở phân môn Địa Lí ở Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học ở phân môn Địa Lí ở Lớp 4

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học ở phân môn Địa Lí ở Lớp 4
môn học, việc đổi mới các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh còn hạn chế và chưa mạnh dạn, chưa tuyên truyền sâu rộng đến tận các bậc phụ huynh và các em học sinh nên chưa làm cho các em thật sự yêu thích môn Địa lí
 Giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống. Học sinh tiếp thu kiến thức thụ động. Giờ học còn mang nặng lý thuyết, chưa nhẹ nhàng và phong phú, sôi nổi.
IV. Đối tượng nghiên cứu
 Thực trạng dạy Địa lí và một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
V. Khách thể nghiên cứu 
- Học sinh lớp 4A2
VI. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Địa lí , trên cơ sở đó đề xuất một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí 4.
VII. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Lí luận 
- Thực trạng
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí lớp 4.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Để dạy học phát huy được tính tích cực chủ động của HS trong học tập thì trước hết người GV phải có kiến thức cần thiết cho việc đổi mới thì mới sử dụng được chúng trong dạy học đáp ứng “Đổi mới căn bản – toàn diện giáo dục”. GV cần phân biệt được sự khác nhau giữa dạy học tích cực với dạy học thụ động: “ Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Cho nên người học phải tích cực nhận thức, luôn có khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.” Người dạy và người học cũng cần nắm được những biểu hiện cơ bản của phương pháp dạy học tích cực để việc dạy học có thể phát huy năng lực của học sinh.
I. Những biểu hiện cơ bản của phương pháp dạy học tích cực?
 Đối với GV: Cho thấy sự chuẩn bị, chọn lọc các phương pháp phù hợp; biết gợi mở, dẫn dắt HS khám phá kiến thức; thời gian hoạt động ít nhưng thời gian quan sát theo dõi nhiều.
 Đối với HS: Đóng vai trò chủ động, là trung tâm trong việc tìm hiểu tri thức mới, tự quyết định phong cách, nhịp độ của việc học, đồng thời biết vận dụng tốt kiến thức vào công việc thực tiễn, có thể tìm ra cách giải quyết mới hữu hiệu, độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, làm theo mẫu hướng dẫn, ở các cấp độ như sau: 
“Bắt chước - Tìm tòi - Sáng tạo - Nhận thức - Hành động”
 PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập trung phát huy tính tích cực của người học, lấy HS làm trung tâm của quá trình dạy học.Khi ấy giáo viên chỉ đóng vai trò định hướng, tổ chức, giúp đỡ quá trình học của HS. Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng trái lại cách học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn: Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Bên cạnh đó sự hỗ trợ từ phụ huynh học sinh cũng vô cùng quan trọng. GV cần lôi kéo phụ huynh tham gia vào quá trình học của con bằng nhiều cách: phụ huynh hỗ trợ con tìm tư liệu, giải đáp một số thắc mắc của con, đưa ra một số vấn đề liên quan đến bài học cho con suy nghĩ, đưa ra một số tình huống thực tiễn để con vận dụng bài học giải quyết... Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. 
 Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và đã thu được kết quả khá tôt .
II. Các phương pháp, kĩ thuật trong dạy học tích cực
1/ Sơ đồ tư duy
  Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não, là một phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả:
+ Mở rộng, khắc sâu và kết nối các ý tưởng.
+ Bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng.
    Sơ đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề.
• Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm.
• Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên.
• Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó.
• Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
 Đối với môn Địa lí sơ đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều nội dung giảng dạy: Tóm tắt nội dung; ôn tập một chủ đề; trình bày tổng quan một chủ đề bằng sơ đồ; ghi chép khi nghe bài giảng...
2/ Giải quyết vấn đề 
 Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, hay dạy học dựa trên vấn đề, hoặc dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp mà giáo viên đặt ra trước học sinh một vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề. Sau đó giáo viên phối hợp cùng học sinh giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cần thiết của nội dung học tập. 
 Trình tự tiến hành 
 + Đặt vấn đề và chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề 
 Đặt vấn đề là đặt ra trước học sinh một câu hỏi. Tuy nhiên, đó không phải là câu hỏi thông thường như trong đàm thoại, mà phải là câu hỏi có vấn đề. Nghĩa là, câu hỏi phải chứa đựng: Một mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, giữa cái đã biết và cái chưa biết cần phải khám phá, nhận thức, giữa vốn kiến thức khoa học đã có và vốn kiến thức thực tiễn đa dạng. 
 Ví dụ: “Thường ở nơi đông dân, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn trong phát triển, thế nhưng tại sao Thủ đô Hà Nội là vùng đông dân nhưng vẫn là vùng có trình độ phát triển cao so với trung bình của cả nước?”
 Tình huống có vấn đề là một trạng thái tâm lý: Trong đó học sinh tiếp nhận mâu thuẫn khách quan như là mâu thuẫn chủ quan bị day dứt bởi chính mâu thuẫn đó và có ham muốn giải quyết. Để vấn đề trở thành tình huống đối với học sinh, câu hỏi đặt vấn đề phải lưu ý các điểm sau: Trong thành phần câu hỏi, phải có phần học sinh đã biết (phần kiến thức cũ) và phần học sinh chưa biết (phần kiến thức mới). Hai phần này phải có mối quan hệ với nhau,trong đó phần học sinh chưa biết là phần chính của câu hỏi, học sinh phải có nhiệm vụ tìm tòi, khám phá. 
 Ví dụ: “Thường những nơi có hệ thống sông ngòi chằng chịt thì phải đắp đê phòng lũ vậy tại sao ở đồng bằng Nam Bộ người dân lại không đắp đê phòng lũ?”
 Nội dung câu hỏi phải thật sự kích thích, gây hứng thú nhận thức đối với học sinh.Trong rất nhiều trường hợp, câu hỏi gắn với các vấn đề thực tế gần gũi, thường lôi cuốn hứng thú học sinh nhiều hơn. Câu hỏi phải vừa sức học sinh. Các em có thể giải quyết được, hoặc hiểu được cách giải quyết dựa vào việc huy động vốn tri thức sẵn có của mình bằng hoạt động tư duy. 
+ Giải quyết vấn đề: 
 Đề xuất các giả thuyết cho vấn đề đặt ra 
 Thu thập và xử lí thông tin theo hướng các giả thuyết đã đề xuất
3/ Kĩ thuật “khăn trải bàn”
 Thế nào là kĩ thuật “Khăn trải bàn”?
 Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người/ nhóm) (có thể nhiều người hơn).
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa.
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...).
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút.
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời.
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0).
 Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi.
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy “khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn.
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
- Trong khi dạy học giáo viên có thể linh hoạt thay hình khăn trải bàn trên bằng bông hoa nhiều cánh, mỗi học sinh ghi ý kiến ra một cánh, nhụy hoa là ý kiến chungvà nhiều hình khác nữa: ngôi nhà, cái cây để tạo hứng thú cho học sinh.
4/ Kĩ thuật phòng tranh: 
 Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.
 - GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
  - Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.
  - HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’ và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.
  - Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ưu.
5/ Kĩ thuật “ Trình bày một phút”
 Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp.
6/ Dạy học theo góc
Là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học. Là một môi trường học tập với cấu trúc được xác định cụ thể. Kích thích HS tích cực học thông qua hoạt động. Đa dạng về nội dung và hình thức hoạt động. Mục đích là để học sinh được thực hành, khám phá và trải nghiệm qua mỗi hoạt động.
 Ví dụ: 3 góc cùng thực hiện một nội dung và mục tiêu học tập nhưng theo các phong cách học khác nhau và sử dụng các phương tiện/ đồ dùng học tập khác nhau. Đọc tài liệu, xem băng, làm thí nghiệm, áp dụng (trải nghiệm), (quan sát), (phân tích), (áp dụng).
 Các bước dạy học theo góc
 Bước 1: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp.
 Bước 2: Xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng góc.
 Bước 3: Thiết kế các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ở từng góc bao gồm phương tiện / tài liệu (tư liệu nguồn, văn bản hướng dẫn làm việc theo góc; bản hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn tự đánh giá,)
 Bước 4: Tổ chức thực hiện học theo góc – HS được lựa chọn góc theo sở thích – HS được học luân phiên tại các góc theo thời gian quy định (ví dụ 10’ 15’ tại mỗi góc) để đảm bảo học sâu.
 Bước 5: Tổ chức trao đổi/ chia sẻ (thực hiện linh hoạt).
 Một số lưu ý của dạy học theo góc: Chọn nội dung bài học phù hợp với đặc trưng của học theo góc. Chuẩn bị đầy đủ các thiết bị, tư liệu phù hợp với nhiệm vụ học tập mỗi góc. Đảm bảo cho HS thực hiện nhiệm vụ luân phiên qua các góc (Học sâu và học thoải mái).
7/ Kĩ thuật “Chúng em biết 3”:
 - GV nêu chủ đề cần thảo luận.
 - Chia HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10 phút về những gì mà các em biết về chủ đề này.
 - HS thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả lớp.
 - Mỗi nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên.
8/ Kĩ thuật “Hoàn tất một nhiệm vụ”
 - GV đưa ra một câu chuyện/ một vấn đề/ một bức tranh/ một thông điệp/ mới chỉ được giải quyết một phần và yêu cầu HS/ nhóm HS hoàn tất nốt phần còn lại.
 - HS/ nhóm HS thực hiện nhiệm vụ được giao.
 - HS/ nhóm HS trình bày kết quả.
 - GV hướng dẫn cả lớp cùng bình luận, đánh giá.
- GV nhận xét, chốt các ý chính.
III. Áp dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực vào bài cụ thể 
 Trên cơ sở GV nắm được các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực người GV còn phải biết tổ chức các hình thức dạy học cho phù hợp mới phát huy được tính tính cực chủ động sáng tạo của học sinh. Sau đây, tôi xin nêu một tiết học tiêu biểu:
Bài 9. Thành phố Đà Lạt
CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU
1. Khởi động:
 - HS nghe bài hát : Đà Lạt tôi yêu.
 - HS kể những cảnh đẹp của Đà Lạt.
2. Trải nghiệm – Khám phá:
 - HS kể những điêu em biết về Đà Lạt?
 - Tìm hiểu về Đà Lạt qua chuyến du lịch qua màn ảnh nhỏ.
3. Các hoạt động cơ bản :
 Hoạt động1: Hoạt động nhóm 4 – Sử dụng kĩ thuật “Khăn trải bàn”
 - HS nhận câu hỏi và hoàn thành nhiệm vụ vào vị trí của mình.
 - Đà Lạt nằm ở cao nguyên nào?
 - Đà Lạt ở độ cao bao nhiêu?
 - Mô tả một cảnh đẹp của Đà Lạt?
 Hoạt động 2 :Thảo luận nhóm – Sử dụng kĩ thuật” Mảnh ghép”
- Tại sao Đà Lạt lại được chọn làm nơi du lịch, nghỉ mát? 8 phút
- Đà Lạt có những công trình kiến trúc nào phục vụ cho việc nghỉ mát, du lịch? - Kể tên một số khách sạn ở Đà Lạt?
- Tại sao Đà Lạt được gọi là thành phố của hoa, trái?
 Hoạt động 3 : Trưng bày sản phẩm – Sử dụng kĩ thuật “Phòng tranh”
- Giáo viên chia nhóm, khu vực trưng bày các sản phẩm tranh ảnh sưu tầm được về Đà Lạt.
 - Các nhóm cùng chia sẻ sản phẩm của nhóm.
 Lưu ý: Tùy theo đặc trưng môn học, nội dung dạy học, đặc điểm và trình độ HS, điều kiện cơ sở vật chất GV có thể vận dụng các bước thực hiện một giờ dạy học như trên một cách linh hoạt và sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng nhắc. Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới PPDH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của cả người dạy và cả người học. Dù ở điều kiện và hoàn cảnh nào, sự chuẩn bị chu đáo – sử dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực đem lại những giờ học có hiệu quả, bổ ích và hứng thú đối với cả người dạy, người học.
    IV. Kết quả
 Sau một thời gian vận dụng các biện pháp trên, tôi đã thu được các kết quả :
- Chất lượng giáo dục về các mặt được nâng cao: HS tích cực, tự giác trong học tập, HS tự điều khiển các nhóm học tập sôi nổi, tự tổ chức được các hoạt động tập thể như : Giao lưu PTNLHS, hoạt động ngoài giờ lên lớp .
- Giáo viên tích cực nghiên cứu bài dạy, tổ chức linh hoạt sáng tạo các tiết dạy, các tiết dạy tổ chức nhẹ nhàng  sôi nổi và mang lại hiệu quả cao.
- HS mạnh dạn hơn trong giao tiếp, các kỹ năng sống được rèn luyện tạo cho HS tác phong nhanh nhẹn, tự tin hơn trong học tập. HS hăng hái, chủ động, tự giác tham gia các hoạt động HT, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
- HS ham thích học môn Địa lí vì các em thấy được nhiều điều cần khám phá cuộc sống và thế giới xung quanh.
- Chất lượng giảng dạy đã được nâng cao, kết quả kiểm tra định kì cuối kì I vừa qua đạt kết quả cao. 
 Cụ thể : 100% học sinh biết làm quen với những dạng bài. 
 Với sĩ số lớp 4A2 (năm học 2019 – 2020) là 42 em, kết quả kiềm tra cuối kì I thu được như sau:
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
25
59,5
13
31
4
9,5
0
0
 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
 Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện: “Vận dụng dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” mà tôi đã áp dụng, tôi rút ra được một số kết luận và bài học kinh nghiệm như sau :
  Một là: Người GV phải nhiệt tình nghiên cứu và có được những hiểu biết về các nội dung đổi mới thì mới điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng tích cực hóa để thực hiện tốt nội dung dạy học hiện nay.
  Hai là: Tích cực tổ chức các hoạt động tập thể để học sinh được rèn các kỹ năng giao tiếp – tổ chức các hoạt động sẽ góp phần lớn cho việc dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
  Ba là: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chú trọng phát triển năng lực học sinh; thì cần phải vận dụng dạy học theo tình huống, dạy học sinh định hướng hành động, tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý phát huy khả năng tự học cho học sinh. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đánh giá cũng phải chú trọng vào năng lực của người học (tư duy sáng tạo, vận dụng giải quyết những vấn đề trong cuộc sống.
  Bốn là: Quan tâm phát triển năng lực cá nhân; lấy học sinh làm trung tâm và việc đánh giá chỉ nhằm định hướng cho người học phương pháp học tập và con đường tiếp tục học tập. Để làm được như vậy, giáo viên phải có khả năng đáp ứng được đòi hỏi mới trong giáo dục và nhà trường phải hoàn toàn chủ động, làm chủ được trong việc tiếp cận này.
 Năm là: Đối với môn Địa Lí, giáo viên phải nắm vững nội dung, kiến thức của chương trình, tìm hiểu về đặc trưng của môn học, áp dụng những phương pháp dạy phù hợp với từng bài học. Không có phương pháp nào là tối ưu. Muốn đạt hiệu quả tốt cần có sự kết hợp sáng tạo các phương pháp, tăng cường các hoạt động thực hành dưới sự chỉ đạo của giáo viên và sự chủ động học tập của học sinh. Đồng thời qua những bài học, giáo viên cần chú ý việc lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục kĩ năng sống, liên hệ thực tế sau mỗi bài học để kịp thời giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường sống..đồng thời rèn luyện các em tính tự học, tự giác, tự rèn luyện, biết vận động mọi người phải yêu thiên nhiên và tích cực bảo vệ môi trường. Kết hợp cùng Ban đại diện cha mẹ học sinh, các đoàn thể, hỗ trợ giáo viên trong công tác chủ nhiệm, giáo dục đạo đức học sinh  góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
 Sáu là: Qua việc thực hiện đề tài vào giảng dạy trên lớp, đã được tổ chuyên môn đánh giá đạt hiệu quả tốt. Ban giám hiệu khuyến khích giáo viên trong nhà trường cần học tập, vận dụng vào thực tế giảng dạy của lớp mình để mang lại những bài học sinh động và bổ ích. Giáo viên tiếp tục rèn luyện nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, nghiên cứu bài dạy, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để mang lại hiệu quả trong giảng dạy. Tích cực tham gia làm đồ dụng dạy học phục vụ cho môn học, sưu tầm tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ và vật liệu để làm giàu “kho phương tiện của mình và của nhà trường, làm quen với cách dạy học bằng công nghệ thông tin, đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.
II. Khuyến nghị
Sở và Bộ cần tạo điều kiện trang bị cho nhà trường các bộ tranh ảnh, sách truyện địa lí dùng cho Tiểu học, có sách tham khảo địa lí cho giáo viên, các loại băng hình, tư liệu về các địa danh, văn hóa, hoạt động sản xuất của các vùng, miền...
 Nhà trường và phụ huynh nên phối hợp tổ chức cho các con học sinh được đi tham quan các địa danh có liên quan có liên quan đến bài hoc.
 Nhà trường nên tổ chức các sân chơi tìm hiểu về kiến thức địa lí vào các giờ sinh hoạt chung ở sân trường để các con vừa được chơi vừa được học qua đó các con tiếp nhận kiến thức một các rất tự nhiên, hào hứng.
 Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong những năm dạy môn Địa lí lớp 4. Rất mong được sự góp ý kiến của các ban ngành và các đồng nghiệp để sao cho việc dạy học phân môn Địa lí ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trong nhà trường Tiểu học.
 Tôi xin cam đoan đề tài sáng kiến trên của bản thân tôi viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Tôi xin trân trọng cảm ơn!
 Hà Nội, ngày 6/3/2020
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN 
 của tôi viết không sao chép nội dung của . người khác.
 Người viết
 Vũ Thu Trang
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Ý nghĩa
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
GD & ĐT
Giáo dục và đào tạo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Lịch sử và Địa lí 4 – NXB Giáo dục Việt Nam
2. Sách Giáo viên Địa lí 4 - NXB Giáo dục Việt Nam
3. Sách Thiết kế bài giảng Địa lí – NXB Hà Nội
4. Nguyễn Văn Cường “ Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH ở trường THPT - dự án phát triển GDTHPT”
5. Dự án PTGD THPT, Hà Nội, 2006 “Đổi mới phương pháp dạy học trung học phổ thông”, 
6. Lê Anh Phi, Hồ Tùng Vĩnh - Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị “ Một số kĩ thuật dạy học đặc thu môn Địa lí nhằm phát huy tính tích cực của học sinh”
 7. Các chuyên san giáo dục, mạng internet.
Đánh giá của Hội đồng xét duyệt SKKN cấp Trường
..
..
..
..
..
..
..
..
..
..
..
..
Đánh giá của Hội đồng xét duyệt SKKN cấp Quận
..
..
..
..
..
..
..
..
..
..
..

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_phat_huy_ti.docx