Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học khoa học Lớp 4
Ngay từ khi mới biết nhận thức, thế giới xung quanh luôn là điều mà con người khát khao tìm hiểu. Ở tiểu học các kiến thức về tự nhiên, xã hội và con người; sự vận động và phát triển và mối quan hệ giữa chúng được trình bầy một cách đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh trong môn khoa học.
Việc dạy môn khoa học không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức đơn thuần mà còn nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với cách tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc sống và tiếp tục học tập sau này. Chính vì vậy, khoa học là môn học quan trọng trong nhà trường.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập của Việt nam và các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải có những đổi mới trong mục tiêu và nội dung dạy học. Sự đổi mới này đòi hỏi phải có những đổi mới về phương pháp dạy học. Theo định hướng đó, phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp đặc điểm của từng lớp học, môn học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học khoa học Lớp 4
+ Tạo điều kiện để học sinh chủ động. + Chú ý hình thành khả năng tự học của học sinh. Dạy học tích cực tạo cho các em phương pháp học tập tích cực. Chính vì vậy tôi đã đề ra các biện pháp thực hiện như sau: VI.Các biện pháp giải quyết vấn đề - Biện pháp 1: Rèn học sinh tự làm các thí nghiệm đơn giản. ở lớp 4, phần vô cơ được thể hiện qua chủ đề “Vật chất và năng lượng”. Nội dung này được thể hiện nhiều là qua các thí nghiệm, vì vậy khi giảng dạy, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc làm thí nghiệm. * Phương pháp thí nghiệm có tác dụng : + Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng, sự vật tự nhiện. + Thí nghiệm được sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế các em sẽ hiểu sâu nhớ lâu. +Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: đặt thí nghiệm , lắp ráp dụng cụ thí nghiệm, quan sát diễn biến thí nghiệm, ... * Để dạy học theo phương pháp thí nghiệm thông thường cần tuân theo các bước sau: - Xác định mục đích của thí nghiệm: + Các thí nghiệm trong chương trình khoa học 4 có thể phân thành 3 loại chính: Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia hoặc hiện tượng kia). Loại nghiên cứu tính chất của một vật. - Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm: + Liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành thí nghiệm. + Vạch kế hoạch cụ thể (làm gì trước, làm gì sau). Thực hiện thao tác gì ? Trên vật nào ? Quan sát dấu hiệu gì ? ở đâu ? bằng giác quan nào hoặc phương tiện nào ? - Bố trí, lắp ráp và làm thí nghiệm theo các bước đã vạch ra. * Khi làm thí nghiệm, giáo viên cần nắm vững và thực hiện các yêu cầu sau: + Học sinh phải chọn ra được một số yếu tố riêng có thể khống chế được để nghiên cứu hoặc phải tác động lên hiện tượng, sự vật cần nghiên cứu. + Học sinh cần phải theo dõi, quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm. + Học sinh cần biết thiết lập các mối quan hệ (nguyên nhân - kết quả) giải thích các kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận. + Các điều kiện và quá trình được kiểm soát là thiết yếu đối với một số thí nghiệm. + Chú ý đảm bảo an toàn cho học sinh khi làm thí nghiệm. - Phân tích kết quả và kết luận: Phần này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đến các dấu hiệu bản chất. dạy học sinh cách so sánh, suy luận khái quát để rút ra kết luận. Lưu ý: Tuỳ từng thí nghiệm, tuỳ trình độ học sinh, giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm thí nghiệm ở các mức độ khác nhau: Học sinh nghiên cứu thí nghiệm được trình bày trong SGK đưa ra giả thuyết, giải thích và kết luận. Giáo viên làm mẫu, học sinh làm theo. Giáo viên giao nhiệm vụ, giúp đỡ học sinh từng bước tiến hành thí nghiệm thông qua phiếu học tập hoặc chỉ dẫn bằng lời. Giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự làm, giáo viên theo dõi và đưa ra chỉ dẫn kịp thời nếu thấy cần thiết. Vì thế trừ một số thí nghiệm đòi hỏi tính chính xác cao phải do giáo viên thực hiện (ví dụ bài 31: thí nghiệm chứng minh tính chất của không khí: Không khí nở ra khi nóng lên và co lại khi lạnh đi; bài 37: Thí nghiệm chứng minh không khí chuyển động từ nơi lạnh đến nơi nóng, không khí chuyển động tạo thành gió) các thí nghiệm nêu ở sách giáo khoa, tôi chia lớp thành nhiều nhóm để thực hành. Đối với mỗi thí nghiệm yêu cầu học sinh thực hiện đúng theo các bước sau: Chuẩn bị dụng cụ. Tiến hành thí nghiệm. Quan sát thí nghiệm. Giải thích thí nghiệm * Ví dụ bài 52: Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt. Hoạt động 2: Chứng minh không khí là vật cách nhiệt. Chuẩn bị: + Hai chiếc cốc như nhau. + Hai tờ giấy báo. + Nước nóng. + Nhiệt kế. Cách tiến hành: Giáo viên cho học sinh đọc cách tiến hành trong SGK để học sinh nắm được cách làm thí nghiệm như sau: + Lấy một tờ giấy báo quấn thật chặt vào cốc thứ nhất. + Lấy tờ báo còn lại làm nhăn và quấn lỏng vào cốc thứ hai để có nhiều chỗ chứa không khí giữa các lớp giấy. + Đổ vào hai cốc nước một lượng nước nóng như nhau. + Sau một thời gian đo nhiệt độ nước trong hai cốc. - Nhận xét: Nước trong cốc nào nóng hơn Giáo viên chỉ làm mẫu cách quấn giấy vào cốc sau đó yêu cầu học sinh tiến hành thí nghiệm theo nhóm 4. 3. Quan sát thí nghiệm Học sinh đo và ghi lại nhiệt độ của từng cốc sau mỗi lần đo. Lần 1: Nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và không buộc chặt có nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt Lần 2: Đo cách lần một 5 phút, nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và chặt vẫn có nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt. 4. Giải thích hiện tượng Học sinh dựa vào tính chất của không khí để giải thích hiện tượng nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn nước trong cốc quấn giấy báo thường và quấn chặt như sau: Nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn vì giữa các lớp báo quấn lỏng có chứa rất nhiều không khí nên nhiệt độ của nước truyền qua cốc, lớp giấy báo và truyền ra ngoài môi trường ít hơn, chậm hơn nên nó còn nóng lâu hơn. Sau đó học sinh tự rút ra kết luận không khí là vật cách nhiệt. * Ví dụ dạy bài 45: ánh sáng. Hoạt động 3: Tìm hiểu sự truyền ánh sáng qua các vật 1. Chuẩn bị: Một tấm bìa, quyển vở, tấm thuỷ tinh hoặc nhựa trong, mầu... đèn pin 2. Cách tiến hành: Với các đồ dùng đã chuẩn bị như trên, các nhóm thử bàn với nhau xem làm cách nào để biết vật nào cho ánh sáng truyền qua, vật nào không cho ánh sáng truyền qua. Học sinh tiến hành làm thí nghiệm như đã bàn. Ghi lại nhận xét, kết quả theo bảng sau: Các vật cho gần nhau như toàn bộ ánh sáng đi qua Các vật chỉ cho một phần ánh sáng đi qua Các vật không cho ánh sáng đi qua ......... ............ ............ 3. Cho học sinh nêu các ví dụ ứng dụng liên quan: Ví dụ việc sử dụng cửa kính trong, cửa kính mờ, cửa gỗ. * Ưu điểm của biên pháp 1 là: - Học sinh có kỹ năng thao tác thành thạo trong việc thực hiện thí nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Học sinh được trực quan (mắt thấy, tai nghe hoặc cảm nhận qua các giác quan) hiện tượng kết quả thí nghiệm, chứ không bị áp đặt, chấp nhận kết quả thí nghiệm một cách gián tiếp thông qua sách giáo khoa. 2.3.2- Biện pháp 2: Tăng cường việc học tập theo nhóm. Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp. Trong nhóm, học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc hợp tác với nhau. Hoạt động nhóm là một hoạt động học tập tích cực. Cụ thể là: + Đem lại cho học sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức và kỹ năng mà các em được lĩnh hội và rèn luyện. + Cho phép học sinh diễn đạt những ý tưởng, những khám phá của mình. + Mở rộng suy nghĩ và thực hành các kỹ năng tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá ...). Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. + Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin tưởng lẫn nhau trong học tập. + Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giúp các em học sinh nhút nhát, khả năng diễn đạt kém.. có điều kiện rèn luyện, tập dươc, từ đó tự khẳng định mình trong sự hấp dẫn của hoạt động nhóm. + Khi dạy học nhóm, giáo viên sẽ có dịp tận dụng các kinh nghiệm và sự sáng tạo của học sinh trong học tập. * Muốn hoạt động nhóm đạt kết quả tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau: + Mỗi thành viên trong nhóm đều biết và hiểu công việc của nhóm, của bản thân. + Mỗi thành viên đều tích cực suy nghĩ và tham gia vào các hoạt động của nhóm (như phát biểu ý kiến, tranh luận ...). + Mọi thành viên đều lắng nghe ý kiến của nhau, thoải mái khi phân tích và nói ra những điều mình suy nghĩ. + Toàn nhóm làm việc hợp tác và đồng lòng với quyết định của cả nhóm. + Mọi người biết rõ việc cần làm, giúp đỡ lẫn nhau, đều lo lắng tới công việc chung. + Vai trò của nhóm trưởng, thư ký, báo cáo viên ... được thực hiện luân phiên. Chính vì thế giáo viên cần có sự chuẩn bị kỹ càng từ việc tự làm thử thí nghiệm trước khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lôn xộn hoặc học sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của tiết học. Muốn vậy, giáo viên cần chú ý: + Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn (chia nhóm nhỏ, lớn). + Giao việc cụ thể cho từng nhóm. + Phân công nhiệm vụ cho các em. Trong nhóm thường có các thành phần: + Trưởng nhóm: Quản lý chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động. + Thư ký nhóm: Ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm sau khi đạt được sự đồng tình của nhóm. + Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm. + các thành viên khác trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm. Mỗi nhóm chỉ nên có khoảng từ 2 đến 6 em. * Ví dụ bài 20: Nước có những tính chất gì ? Hoạt động 1: Quan sát vật thật Mục tiêu: Phát hiện mầu, mùi, vị của nước. Cách tiến hành: Bước 1: Tổ chức, hướng dẫn + Giáo viên yêu cầu các nhóm đem cốc đựng nước và cốc đựng sữa đã chuẩn bị ra quan sát và làm theo yêu cầu như đã ghi ở trang 42 sách giáo khoa. + Giáo viên chỉ yêu cầu học sinh trao đổi trong nhóm ý 1 và 2 theo yêu cầu quan sát ở trang 42 SGK. Bước 2: Làm việc theo nhóm + Nhóm trưởng điều khiển các bạn quan sát và lần lượt trả lời câu hỏi; Cốc nào đựng nước, cốc nào đựng sữa ? (học sinh dễ dàng nhận ra cốc đựng nước và cốc đựng sữa trên vật thật). Làm thế nào để bạn biết điều đó ? (đối với câu hỏi này, giáo viên cần đi tới các nhóm giúp đỡ để học sinh sử dụng các giác quan của mình phát hiện ra cốc nào đựng nước và cốc nào đựng sữa. cụ thể là: Nhìn vào 2 cốc: Cốc nước thì trong suốt và có thể nhìn thấy rõ cái thìa để trong cốc; cốc sữa có mầu trắng đục nên không nhìn rõ cái thìa để trong cốc. Nếm lần lượt từng cốc: Cốc nước không có vị, cốc sữa có vị ngọt. Ngửi lần lượt từng cốc: Cốc nước không có mùi, cốc sữa có mùi sữa. Bước 3: Làm việc cả lớp + Giáo viên gọi đại diện cả nhóm lên trình bày những gì học sinh đã phát hiện ra ở bước 2. Giáo viên ghi các ý kiến của học sinh lên bảng như sau: Các giác quan cần sử dụng để quan sát Cốc nước Cốc sữa 1. Mắt - nhìn Không có mầu, trong suốt, nhìn rõ chiếc thìa Trắng đục, không nhìn rõ chiếc thìa 2. Lưỡi - nếm Không có vị Có vị ngọt của sữa 3. Mũi - ngửi Không có mùi Có mùi của sữa + Giáo viên gọi một số học sinh nói về một số tính chất của nước được phát hiện trong hoạt động này. Kết luận: Qua quan sát ta có thể nhận thấy nước trong suốt, không mầu, không mùi, không vị * Việc học tập theo nhóm đã đem lại một số kết quả học tập như sau: + Học sinh tham gia tích cực hơn, tự tin hơn vào bản thân. + Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trước tập thể. Ngoài việc lên kế hoạch và giao việc cho các nhóm, để tổ chức một tiết học có hiệu quả, giáo viên cần chú ý một số điểm sau: + Sắp xếp bàn ghế thuận tiện cho việc học nhóm. + Luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong gìơ học. + Chuẩn bị tốt nội dung thảo luận cho từng nhóm. - Biện pháp 3: Tổ chức “Trò chơi học tập” Chơi là một nhu cầu mang tính sinh học của các em. Có thể nói vui chơi cần thiết và vô cùng quan trọng như ăn, ngủ, học tập... trong đời sống của các em. Tổ chức trò chơi học tập giúp thay đổi hình thức hoạt động trên lớp, làm không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, học sinh tiếp thu kiến thức thoải mái, tích cực hơn ... * Khi tổ chức trò chơi người giáo viên cần phải nắm và thực hiện được các nguyên tắc sau: + Trò chơi phải thể hiện mục đích rõ ràng về kiến thức của bài học, đảm bảo ôn tập, củng cố, rèn kĩ năng hoặc ứng dụng một đơn vị kiến thức cụ thể. + Trò chơi phải đơn giản, dễ làm sao cho bản thân giáo viên và học sinh đều có thể tự làm được. + Hệ thống trò chơi trong các giờ học phải thu hút được nhiều đối tượng học sinh tham gia.Tránh chỉ thiết kế trò chơi cho học sinh khá giỏi. + Có luật chơi. + Đảm bảo an toàn cho học sinh khi chơi. + Nên tổ chức vào phần củng cố bài học, khi thời gian của tiết học còn khoảng 5 đến 6 phút. * Cách tổ chức trò chơi: + Giới thiệu và nêu cách chơi: Có thể tiến hành nhiều cách khác nhau nhưng yêu cầu giáo viên nói ngắn gọn rõ ràng, dễ hiểu, sao cho tất cả học sinh nắm được cách chơi. + Cho học sinh chơi thử (nếu cần). + Tiến hành chơi (giáo viên điều khiển trò chơi phải nắm vững tiến trình và theo dõi chặt chẽ). + Đánh giá kết quả chơi: Sau mỗi lần chơi giáo viên nhận xét, đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi. Nêu ưu, nhược điểm của từng cá nhân, tập thể. Xếp giải nhất, giải nhì... công bằng rõ ràng để kích thích những lần chơi tiếp theo. Kết thúc: Giáo viên hỏi xem học sinh đã học được những gì qua trò chơi hoăch giáo viên tổng hợp lại những gì cần học được qua trò chơi này; Lưu ý: Đối với những trò chơi đơn giản, không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các bước trên. * Ví dụ dạy bài 41: Âm thanh Trò chơi : Đoán tên âm thanh Mục đích: Giúp học sinh khắc sâu kiến thức về những âm thanh trong cuộc sống phát ra từ đâu và luyện tập các cách khác nhau để làm cho vật phát ra âm thanh. Chuẩn bị: Các dụng cụ phát ra âm thanh như: trống, kèn, sỏi ...theo nhóm. Cách tiến hành: + Giáo viên phổ biến luật chơi: Chia lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm có thể dùng bất cứ vật gì để tạo ra âm thanh. Nhóm kia sẽ đoán xem, âm thanh đó do vật nào gây ra và đổi ngược lại. Mỗi lần đoán đúng tên vật được cộng thêm 5 điểm, đoán sai bị trừ đi 1 điểm. + Tổng kết điểm. + Tuyên dương nhóm thắng cuộc. *Ví dụ dạy bài 64: Trao đổi chất ở động vật Trò chơi: Đố bạn con gì ? Mục đích: Giúp học sinh luyện tập kể tên một số loài động vật và thức ăn cúa chúng. Củng cố cách phân loài động vật theo nhóm thức ăn của chúng. Chuẩn bị: Tranh ảnh động vật đủ các nhóm thức ăn của nó. Cách tiến hành: - Giáo viên phổ biến luật chơi: + Giáo viên dán vào lưng học sinh một con vật mà không cho học sinh đó biết, sau đó yêu cầu học sinh quay lưng lại cho các bạn xem con vật của mình. + Học sinh chơi có nhiệm vụ đoán xem con vật mình đang mang là con gì. + Học sinh chơi được hỏi các bạn dưới lớp 5 câu về đặc điểm của con vật. + Học sinh dưới lớp chỉ trả lời đúng hoặc sai. + Tìm được tên con vật sẽ nhận được một món quà. - Cho học sinh chơi thử. Ví dụ: Học sinh đeo con vật là con hổ, hỏi: + Con vật này có 4 chân phải không ? - Đúng. + Con vật này có sừng phải không ? - Sai. + Con vật này ăn thịt các loại động vật khác có phải không ? - Đúng. + Đấy là con hổ - Đúng. (cả lớp vỗ tay khen bạn). - Cho học sinh chơi theo nhóm. - Cho học sinh xung phong chơi trước lớp. - Nhận xét, khen ngợi các em đã nhớ những đặc điểm của con vật, thức ăn của chúng. - Biện pháp 4: Khuyến khích học sinh sưu tầm tư liệu phục vụ bài học. Sách giáo khoa hiện nay đóng vai trò quan trọng trong phần cung cấp kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, ở một số bài học của phần khoa học, tư liệu sưu tầm lại đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong việc giúp học sinh chủ động, phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức bài học, chứ không phải tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, chấp nhận. Cách làm này rất phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh, gây hứng thú học tập đồng thời bước đầu hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học, chuẩn bị cho các em tiếp tục học lên các lớp trên. * Ví dụ bài 54: Nhiệt cần cho sự sống. Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật. học sinh làm việc theo nhóm với yêu cầu sau: - Phân loại tranh ảnh động vật sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như sau: + Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm. + Động vật sống ở vùng ôn đới. + Động vật sống ở vùng nhiệt đới. + Động vật sống ở vùng sa mạc. - Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều động vật sinh sống hoặc ít động vật sinh sống). Trên cơ sở tranh ảnh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt đối với đời sống động vật. Để việc sưu tầm tư liệu mang lại hiệu quả cao, tôi áp dụng một số các làm như sau: + Hướng dẫn học sinh phân loại tranh theo yêu cầu của bài học. + Sử dụng tư liệu sưu tầm của học sinh các khoá trước. + Đánh giá, động viên việc sưu tầm tư liệu của học sinh. + Giáo viên thường xuyên bổ sung tư liệu, kiến thức ngoài sách giáo khoa trong các tiết học. - Biện pháp 5: Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (màn hình, máy chiếu, băng hình ...) Trang thiết bị dạy học (đặc biệt là những thiết bị dạy học là những phương tiện tốt nhất để học sinh đón nhận kiến thức mới một cách nhanh chóng. Mục đích của việc sử dụng trang thiết bị dạy học không chỉ để minh hoạ cho nội dung bai học mà còn là phương tiện để tổ chức các hoạt động học tập dưới nhiều hình thức. Nhờ đó, học sinh có điều kiện để tìm tòi, khám phá ra kiến thức mới. * Ví dụ bài 39: Không khí bị ô nhiễm Phần 2: Nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí. Học sinh xem một đoạn băng hình “Hà Nội ... khổ vì bụi và khói”. Trước khi xem băng hình, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát băng TLCH sau: + Nhận xét bầu không khí ở Hà Nội. + Nêu nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí. + Liên hệ bầu không khí ở địa phương (xung quanh trường học, nơi em ở...) Trong quá trình xem băng, giáo viên có thể dừng băng ở một số hình ảnh và yêu cầu học sinh cho ý kiến của mình về bầu không khí thông các hình ảnh đó. Như vậy, cách sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại, giáo viên đã đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh tích cực tư duy để giải quyết vấn đề đặt ra, cung cấp những thông tin cập nhật và từ đó có ý thức trách nhiệm bảo vệ bầu không khí. * Ưu điểm của biện pháp 5 là: + Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. + Phát triển tư duy tích cực và có khả năng vận dụng tri thức vào tình huống mới. + Hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của học sinh. PHẦN 3: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ í nghĩa của đề tài Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học môn khoa học của học sinh lớp 4B đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện qua một số điểm sau: + Học sinh hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến trong các tiết học (tỷ lệ này là 80% so với 10% đầu năm học). + Nếu được hỏi, học sinh đã biết vận dụng các kiến thức cũ, kết hợp với những hiểu biết thực tế để trả lời, chứ không hoàn toàn lệ thuộc vào sách giáo khoa. + Học sinh hào hứng, tự tin, mạnh dạn trong các tiết học. + Đối với các bài cần sưu tầm tư liệu, học sinh đã biết sưu tầm tư liệu đúng yêu cầu bài học. Bài học kinh nghiệm Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trên con đường tiến vào thế kỷ 21 bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải có sự đổ mới về nội dung và phương pháp trong dạy học nói chung và trong bộ môn khoa học nói riêng. Từ kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu, tôi rút ra một số kết luận sau: + Nắm bắt kịp thời, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo. + Tạo ra các tình huống có vấn đề trong quá trình dạy học để phát huy tích cực cho học sinh. + Tạo không khí học tập, thoải mái, tự nhiên. + Để thường xuyên thực hiện tiết học có hiệu quả, nên đơn giản hoá việc tổ chức học tập, triệt để sử dụng tư liệu, đồ dùng sẵn có. * Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau: + Tăng cường các chuyên đề thực tập môn khoa học. + Bổ sung các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại (máy chiếu đa năng projector ...). Đề xuất cỏc biện phỏp nhằm nõng cao tớnh phỏt huy tớch cực, chủ động, sỏng tạo của học sinh trong giờ học. Tổ chức cỏc tiết học thực hành cho giỏo viờn, học sinh Tụi xin cam đoan toàn bộ sỏng kiến kinh nghiệm trờn đõy là do tụi viết. Tụi khụng sao chộp nội dung của bất kỡ ai. Khương Đỡnh, ngày 10 thỏng 4 năm 2019 Người viết Đoàn Minh Thiện DANH MỤC Tài liệu tham khảo - Bộ GD - ĐT - Sách khoa học lớp 4 - NXBGD - 2005. - Bộ GD - ĐT - Sách khoa học lớp 4 (giáo viên) - NXBGD - 2005. - Sách BDTX chu kỳ 1997 - 2000 cho giáo viên tiểu học chu kỳ 3 (2003 - 2007) - NXBGD – 2005. - Một số tạp chí tiểu học. - Kinh nghiệm của đồng nghiệp.
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nham_phat_huy_tinh_tich_c.doc