Báo cáo biện pháp Một vài suy nghĩ về việc rèn kĩ năng khi giải dạng toán tìm thành phần chưa biết của phép cộng và phép trừ qua tiết hướng dẫn học
Môn Toán là môn học quan trọng trong chương trình giáo dục ở tiểu học (5 tiết cơ bản + 5 tiết tự học trên 1 tuần đối với lớp 2) là bộ phận để tiếp nối chương trình ở các bài học trung học cơ sở, trung học phổ thông. Vì vậy, việc sắp xếp chương trình toán tiểu học dạy cho học sinh “Tìm thành phần chưa biết trong phép cộng và phép trừ” ở lớp 2 được giới thiệu xen kẽ và gắn bó chặt chẽ với kiến thức số học dưới dạng các bài tập tìm x. hoàn toàn dựa vào những kiến thức về mối quan hệ giữa các thành phần và kết quả của phép tính. Hệ thống các bước thực hiện được xây dựng theo nguyên tắc đồng tâm, nghĩa là phần lớn các kiến thức được lặp đi lặp lại ở nhiều bài sau củng cố và phát triển những hiểu biết kĩ năng đã học ở bài trước. Từ đó có thể phát triển tư duy lô gic, bồi dưỡng và nâng cao những thao tác trí tuệ nhằm phát triển trí thông minh, tính độc lập, linh hoạt, sáng tạo của các em với các loại toán được sắp xếp từ dễ dến khó, từ đơn giản đến phức tạp. thông qua việc học này sẽ giáo dục các em ý chí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch, xây dựng cho bản thân thói quen xét đoán có căn cứ, quen tự kiểm tra kết quả công việc của mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một vài suy nghĩ về việc rèn kĩ năng khi giải dạng toán tìm thành phần chưa biết của phép cộng và phép trừ qua tiết hướng dẫn học
PHềNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN -------e&f-------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ VIỆC RẩN KĨ NĂNG KHI GIẢI DẠNG TOÁN TèM THÀNH PHẦN CHƯA BIẾT CỦA PHẫP CỘNG VÀ PHẫP TRỪ QUA TIẾT HƯỚNG DẪN HỌC” Lĩnh vực/Mụn: Toỏn Năm học: 2015-2016 Mục lục i. mở đầu 2 ii. nội dung 4 1. Nội dung lý luận 4 2. Thực trạng dạy và học hiện nay ở nội dung này 4 3. Biện pháp 6 4. Kết quả 11 III. Kết luận – khuyến nghị 12 i. mở đầu Môn Toán là môn học quan trọng trong chương trình giáo dục ở tiểu học (5 tiết cơ bản + 5 tiết tự học trên 1 tuần đối với lớp 2) là bộ phận để tiếp nối chương trình ở các bài học trung học cơ sở, trung học phổ thông. Vì vậy, việc sắp xếp chương trình toán tiểu học dạy cho học sinh “Tìm thành phần chưa biết trong phép cộng và phép trừ” ở lớp 2 được giới thiệu xen kẽ và gắn bó chặt chẽ với kiến thức số học dưới dạng các bài tập tìm x. Hoàn toàn dựa vào những kiến thức về mối quan hệ giữa các thành phần và kết quả của phép tính. Hệ thống các bước thực hiện được xây dựng theo nguyên tắc đồng tâm, nghĩa là phần lớn các kiến thức được lặp đi lặp lại ở nhiều bài sau củng cố và phát triển những hiểu biết kĩ năng đã học ở bài trước. Từ đó có thể phát triển tư duy lô gic, bồi dưỡng và nâng cao những thao tác trí tuệ nhằm phát triển trí thông minh, tính độc lập, linh hoạt, sáng tạo của các em với các loại toán được sắp xếp từ dễ dến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thông qua việc học này sẽ giáo dục các em ý chí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch, xây dựng cho bản thân thói quen xét đoán có căn cứ, quen tự kiểm tra kết quả công việc của mình. Xuất phát từ thực tiễn dạy học trong bộ môn Toán lớp 2, học sinh còn một số hạn chế trong quá trình giải toán như lẫn lộn giữa các dấu trong phép tính tìm thành phần chưa biết khi chuyển vế trong các bài “Tìm x”. Để giải quyết vấn đề này trong từng tiết học chỉ có thời lượng là 40 phút là khó khăn đối với giáo viên và cả học sinh. Là một trong những trường được ngành Giáo dục cho phép học 2 buổi/ ngày, đó là một trong những điều kiện thuận lợi của trường chúng tôi cũng như nhiều trường khác trong việc giúp đỡ học sinh làm bài ngay tại lớp qua đó nâng cao kiến thức thông qua tiết hướng dẫn học ở buổi học thứ hai. Trên cơ sở tìm hiểu thực tế một cách đầy đủ về thực trạng dạy học và học, qua đề tài: “Rèn kĩ năng khi giải dạng toán tìn thành phần chưa biết của phép tính cộng và trừ thông qua tiết hướng dẫn học” tại lớp 2 trường Tiểu học Nguyễn Trãi tôi đang dạy, tôi tìm thấy nguyên nhân dẫn đến các thiếu sót và đề xuất biện pháp khắc phục. Cùng một số giải pháp sư phạm nhằm củng cố, bồi dưỡng phát triển những thao tác trí tuệ, tư duy linh hoạt, sáng tạo của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, giúp các em hứng thú học tập, không ngừng nâng cao kĩ năng thực hành của mình. Dựa trên thực tế đó, tôi chọn đề tài: “Một vài suy nghi về việc rèn kĩ năng khi giải dạng toán tìm thành phần chưa biết của phép cộng và phép trừ qua tiết hướng dẫn học”. II. Nội dung: 1. Nội dung lý luận: Thực chất của quá trình dạy học góp phần rèn luyện kĩ năng tìm thành phần chưa biết trong phép trừ cho học sinh lớp 2, chính là sự kế thừa và củng cố cho các em những kiến thức toán học và thực hành từ lớp 1. Nhưng với mức độ cao hơn, hoàn chỉnh hơn. Nhằm trang bị cho học sinh được vững vàng về kiến thức toán để hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản và rèn luyện kĩ năng tìm thành phần chưa biết trong phép trừ thông qua việc kiểm tra ôn tập thực hành các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, tạo cho các em sự chuẩn bị tốt để học lên lớp trên. Chương trình Toán 2 có 75 tiết: nội dung toán “Tìm thành phần chưa biết” ở lớp 2 bắt đầu từ tiết 43 của học kì 1, đó chính là dạng toán tìm số hạng trong một tổng. Đến tiết 54 của học kì 1 là bài tìm số bị trừ (thành phần trong phép trừ). Đến tiết 70 học sinh tiếp tục được học cách tìm số trừ (thành phần trong phép trừ). Đến tiết 111 của học kì 2 là bài tìm 1 thừa số của phép nhân (thành phần trong phép nhân). Và đến tiết 123 là bài tìm số bị chia (trong phép chia). Từ tiết 54 trở đi trong các tiết toán (5 tiết/ 1 tuần) các bài tập có nội dung tìm thành phần chưa biết trong phép tính đan xen vào nội dung của từng tiết học. Kiến thức của các bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó từ đơn giản đến phức tạp. Chương trình được sắp xếp như vậy để phù hợp với đặc điểm quá trình nhận thức của học sinh: từ cụ thể đến tư duy, trừu tượng, thành kĩ năng, kĩ xảo. 2. Thực trạng dạy và học hiện nay ở nội dung này: * Giáo viên: - Nhìn chung giáo viên nắm chắc được mục đích yêu cầu của bài dạy, nghiên cứu qua SGK, sách giáo viên, sách thiết kế bài dạy, tạp chí thế giới quanh ta. - Giáo viên chuẩn bị sẵn câu hỏi gợi ý cũng như các bước tiến hành giảng dạy phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh để dẫn dắt các em tìm ra những yếu tố cần thiết giúp cho việc giải bài tập. * Đối với học sinh: - Đối với học sinh lớp 2, các em được học về tìm thành phần chưa biết trong phép cộng, trừ và cả ở phép nhân, phép chia. - Thông qua việc gọi học sinh lên chữa bài tập và chấm bài, tôi đã phát hiện ra những sai lầm của học sinh khi học phần toán “Tìm thành phần chưa biết trong phép cộng và phép trừ” như sau: * Dạng toán: Tìm một số hạng trong một tổng. * Các lỗi giải sai của học sinh: Lấy tổng cộng với số hạng đã biết. Ví dụ: x + 8 = 14 x = 14 + 8 x = 22 * Dạng toán: Tìm số bị trừ. Sai của học sinh: Lấy số trừ trừ đi hiệu. Ví dụ: x - 23 = 9 x = 23 – 9 x = 14 * Dạng toán: Tìm số trừ. * Sai của học sinh: Lấy số bị trừ cộng với hiệu. Ví dụ: 20 – x = 4 x = 20 + 4 x = 24 * Từ những bài giải sai của học sinh, tôi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sai lầm đó: - Không hiểu bản chất của phép tính cộng, trừ. - Không thuộc quy tắc để làm. 3. Biện pháp: a. Dạy chắc kiến thức cơ bản. - Trực tiếp chữa bài cho học sinh còn mắc lỗi, cụ thể như sau: Giúp các em lên chữa bài còn làm sai ở tiết học buổi sáng. Buổi trưa sau khi chấm bài, tôi đã ghi tên và bài làm sai của em đó lại để đến chiều có tiết hướng dẫn làm bài tập toán, tôi sẽ giúp học sinh đó sửa. Ví dụ 1: Tìm một số hạng trong một tổng. Giáo viên ghi bảng một bài giải sau: 8 + x = 14 x = 14 + 8 x = 22 * Giáo viên: Nhận xét bài làm của bạn? * Học sinh: Bài làm của bạn sai. * Giáo viên: Vì sao sai? * Học sinh: Cách làm của bạn sai. Sau đó tôi gọi học sinh làm sai đứng lên kiểm tra lại lời nhận xét của bạn có đúng hay không, bằng cách như sau: * Giáo viên: Nêu tên gọi các thành phần trong phép cộng này. * Học sinh: Số 8 : là số hạng đã biết. x : là số hạng chưa biết 14: là tổng. * Giáo viên ghi bảng: Số hạng số hạng Tổng 8 + x 14 * Giáo viên: Vậy 8 cộng với số nào để được 22? * Học sinh: Số 6 Giáo viên: Làm thế nào để tìm ra số 6? * Học sinh: Dựa vào bảng cộng 8 + 6 = 14 * Giáo viên: Còn có cách làm nào khác? * Học sinh: Lấy 14 trừ đi 8 được 6. * Giáo viên: Vậy muốn tìm số hạng trong tổng em làm thế nào? * Học sinh: Muốn tìm số hạng trong một tổng, lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. * Giáo viên: Chỉ vào bài làm sai trên bảng hỏi: Vậy vì sao bài giải này sai? * Học sinh: Làm không đúng quy tắc. * Giáo viên: Yêu cầu học sinh chữa lại bài. Học sinh giải lại: 8 + x = 14 x = 14 – 8 x = 6 Các trường hợp làm sai bài tìm số bị trừ số trừ tôi cũng tiến hành tương tự như trên. Với cách làm như trên một lần nữa tôi đã củng cố, khắc sâu phần lý thuyết để bản thân học sinh giải sai cũng như học sinh trong lớp nắm chắc bài, không giải sai bài tập nữa. b. Đưa về dạng cơ bản: Vì trong lớp có 3 đối tượng học sinh nên trong giờ hướng dẫn học, ngoài việc củng cố kiến thức cơ bản ở tiết học buổi sáng, tôi còn chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi trong lớp. Do đó tôi đưa ra những bài tập qua một số bước biến đổi mới thành dạng cơ bảng đã học. Do đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở bậc tiểu học là hồn nhiên hay hấp tấp chưa tự tin vào mình đôi khi thực hiện một cách máy móc. Vì thế với các dạng bài toán nâng cao đưa ra bao giờ tôi cũng đi từ dễ đến khó dần. Từ đơn giản đến phức tạp. Tôi chia loại bài tập tìm thành phần chưa biết trong phép tính thành 2 dạng: Dạng 1: Tìm thành phần chưa biết trong phép tính một cách trực tiếp. Dạng 2: Tìm thành phần chưa biết trong phép tính một cách gián tiếp qua bài tập giải toán có lời văn. Ví dụ: Dạng 1: Ví dụ 1: x + 15 = 49 – 17 x + 15 = 32 x = 32 – 15 x = 17 Ví dụ 2: x + 23 + 15 = 47 38 Hướng dẫn học sinh đưa về dạng cơ bản tìm số hạng trong một tổng ta có: x + 38 = 47 x = 47 – 38 x = 9 Ví dụ 3: x + (23 - 15) = 47 Hướng dẫn học sinh thực hiện biểu thức có ngoặc đơn thì phải thực hiện trong ngoặc đơn trước, từ đó đưa về kiến thức cơ bản để tìm thành phần chưa biết. Từ đó ta có: x + 8 = 47 x = 74 – 8 x = 39 Ví dụ 4: x + 23 – 15 = 47 x + 8 = 47 đ Đưa về dạng cơ bản tìm số hạng trong một tổng. x = 47 - 8 x = 39 Ví dụ 5: x – 15 + 23 = 47 Để giải bài toán này tôi hướng dẫn học sinh cách đưa về dạng toán cơ bản bằng cách đặt x – 15 = a. Ta có biểu thức mới là: a + 23 = 47 đ Dạng toán cơ bản tìm số hạng trong một tổng. a = 47 – 23 a = 24 Tìm x: x – 15 = 24 đ Dạng toán cơ bản tìm số hạng chưa biết. x = 24 + 15 x = 39 Ví dụ 6: x – 12 – 15 = 49. Đặt x – 12 = a Ta có: a – 15 = 49 đ Dạng toán cơ bản tìm số bị trừ. a = 49 + 15 a = 64. Tìm x : x – 12 = 64 x = 64 + 12 x = 76 Ví dụ 7: x – (15 - 12) = 49 Để giải bài toán này tôi hướng dẫn học sinh đưa về dạng cơ bản bằng cách thực hiện phép tính trong ngoặc đơn từ đó ta có biểu thức mới: x – 3 = 49 đ Dạng toán cơ bản tìm số bị trừ. x = 49 + 3 x = 52 Ví dụ 8: 32 – (x + 7) = 15. Đặt x + 7 = a Ta có: 32 – a = 15 đ Dạng toán tìm số trừ cơ bản. a = 32 – 15 a = 17 Tìm x: x + 7 = 17 đ Dạng toán tìm số hạng trong một tổng. x = 17 – 7 x = 10 Ví dụ 9: 32 – (x - 7) = 15. Đặt x – 7 = a Ta có: 32 – a = 15 đ Dạng toán tìm số trừ cơ bản. a = 32 – 15 a = 24 Ví dụ 10: 24 – (x+ 12 – 5) = 16 Đặt x + 12 – 15 = a Ta có: 24 – a = 16 đ Dạng toán tìm số bị trừ cơ bản. a = 24 – 16 a = 8 Ta có: x + 12 – 15 = 8 Đặt x + 12 = b b – 15 = 8 Dạng toán tìm số bị trừ cơ bản b = 8 + 15 b = 23 Tìm x: x + 12 = 23. Dạng toán tìm số hạng trong một tổng. x = 23 – 12 x = 11 Ví dụ 11: 34 – (x – 15 + 12) = 16. Đặt x – 15 + 12 = a Ta có: 34 – a = 16 Dạng toán tìm số trừ cơ bản. a = 34 – 16 a = 6 Tìm x: x – 15 = 6. Dạng toán tìm số bị trừ cơ bản. x = 6 + 15 x = 21 Dạng 2: Giải bài toán có lời văn nhưng ta đưa về biểu thức để giải a. Tìm một số, biết rằng lấy số đó trừ đi tổng của 5 và 12 được kết quả bằng một số chẵn chục nhỏ nhất. Bài giải ã Số chẵn chục nhỏ nhất là 10. ã Gọi số phải tìm là a, ta có: a – (5 + 12) = 10 a – 17 = 10 a = 27 Vậy số phải tìm là 27 Đáp số: 27 b. Lan nghĩ ra một số, biết rằng lấy 8 cộng với hiệu của số Lan nghĩ với 5 thì được kết quả bằng số chẵn lớn nhất có hai chữ số. Bài giải ã Số chẵn lớn nhất có hai chữ số là: 98 ã Gọi số Lan nghĩ ra là a, ta có: 8 + (a - 5) = 98. Đặt a – 5 = b 8 + b = 98 b = 98 – 8 b = 90 Tìm a: a - 5 = 90 a = 90 + 5 a = 95 Vậy số Lan nghĩ ra là 95. Đáp số: 95 4. Kết quả: Nếu chỉ học một buổi, 1 tiết toán có 40 phút giáo viên chỉ sửa sai trực tiếp được với một vài học sinh thì nhờ có buổi học thứ hai có những tiết hướng dẫn học và làm bài tập toán giáo viên có nhiều thời gian sửa trực tiếp đối với từng học sinh còn mắc sai lầm khi giải toán và từ đó giáo viên mới củng cố và nâng cao được trình độ chuyên môn của học sinh. Qua quá trình đã nêu trên tôi thấy học sinh lớp tôi hiểu bài nhớ kiến thức áp dụng thực hành có tiến bộ rõ rệt, cụ thể lớp 2 tôi nhận sĩ số 43 em. Có những chuyển biến sau: Thời gian Yếu % TB % Khá % Giỏi % Đầu năm 0 1 2% 12 28% 30 70% Cuối kì 1 0 0 8 18% 35 82% III. Kết luận – khuyến nghị: Có được kết quả như vậy là nhờ sự chỉ đạo về chuyên môn của Ban giám hiệu nhà trường, Phòng Giáo dục quận nhờ sự giúp đỡ của tập thể giáo viên tổ 2 mà tôi cố gắng học hỏi, tiếp thu ý kiến, đúc rút kinh nghiệm để dạy tốt môn toán - đặc biệt là dạng toán “Tìm thành phần chưa biết trong phép cộng và phép trừ” cũng như các môn học khác. Có được sự thành công đáng kể đó còn có sự đóng góp của tập thể học sinh lớp tôi chủ nhiệm. Các em đã biết đoàn kết, cố gắng thi đua trong học tập, rèn luyện trong giờ truy bài, học nhóm, giờ tăng cường toán buổi chiều. Ngoài ra, để đạt được kết quả cao trong khi dạy môn toán nói chung người giáo viên cần: - Nghiên cứu kỹ nội dung dạy toán học của từng chương, từng bài. - Lựa chọn phương pháp và hình thức phù hợp truyền đạt cho các em thật dễ hiểu, giúp các em nắm vững kiến thức của từng dạng toán. - Nắm bắt khả năng học tập của từng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Tạo không khí sôi nổi trong giờ học toán để các em tiếp thu nắm bắt kiến thức dễ dàng. Động viên khích lệ từng học sinh kịp thời. - Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh để kết hợp dạy dỗ các em trong học tập để đạt kết quả cao. - Giáo viên xây dựng hệ thống bài tập rõ ràng, khoa học nhưng phù hợp với nội dung chứa đựng các dấu hiệu toán học chính xác, phát triển tư duy cho học sinh. Trên đây là một số việc tôi đã làm để “Rèn kỹ năng tìm thành phần chưa biết trong phép cộng và phép trừ” cho học sinh đạt kết quả. Tôi mạnh dạn viết ra đây mong các đồng chí góp ý bổ sung cho bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh, giúp tôi giảng dạy đạt kết quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do mình viết không sao chép nội dung của ngời khác. nhận xét của hội đồng xét duyệt sáng kiến kinh nghiệm
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_vai_suy_nghi_ve_viec_ren_ki_nang_khi_g.doc