Biện pháp Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, dạy Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan trọng là dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong công việc.

Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người xung quanh thì ngay từ các lớp đầu cấp của Tiểu học chúng ta cần rèn cho học sinh kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng việt là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải thực hiện.

Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. Theo tôi mon Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác trong luyện tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Một thực tế cho thấy hiện nay rất nhiều học sinh, sinh viên ra trường, có trình độ năng lực trong kĩ năng giao tiếp, thuyết trình, phát biểu trước đám đông lại rất khó khăn. Vì vậy theo tôi nhận thấy “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” là điều hết sức cần thiết và quan trọng.

 

doc 22 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 1400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Biện pháp Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biện pháp Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Biện pháp Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh Lớp 2
thưởng nho nhỏ như cái bút, quyển vở để động viên khuyến khích cho những em có sự tiến bộ. Còn những em chưa tiến bộ tôi không phê bình các em mà bản thân động viên, giúp đỡ và áp dụng mọi biện pháp hợp lí nhất để giúp các em tiến bộ dần trong khi luyện nói và giao tiếp.
Sau khi áp dụng biện pháp này bản thân thấy các em tiến bộ rõ rệt. Những em giỏi đã phát huy hết được vai trò của mình. Những em yếu, kém mạnh dạn hơn trong giao tiếp, biết nói năng lịch sự, có lời nói biểu cảm trong khi giao tiếp.
3. Phương pháp thực hành luyện tập:
Là một phương pháp chính giúp các em được thường xuyên thực hành luyện nói trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Nhờ đó, khả năng giao tiếp các em ngày được nâng cao và hoàn thiện hơn. Rèn cho các em nói sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm và lịch sự.
Biện pháp thực hiện:
Học sinh được rèn kĩ năng nói qua các bài tập thực hành trong SGK Tiếng Việt 2.
* Bài tập rèn luyện cho học sinh phát âm theo chuẩn.
Loại bài tập này tôi thường chú ý đến những đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các tiếng, từ khó trong phần rèn đọc từ khó của phân môn Tập Đọc ở tiết 1.
Rèn cho các em phát âm chưa chuẩn, các em biết phát âm chuẩn, chính xác từ đó các em đủ tự tin phát biểu ý kiến và lời nói trong giờ luyện nói. Để các em phát âm đúng và chính xác bản thân lựa chọn các loại âm, vần mà các em thường phát âm sai do tiếng địa phương. Điều quan trọng là giáo viên phải phát âm chuẩn và chính xác.
Đối với học sinh lớp 2 là lớp tôi đang chủ nhiệm, đa số các em phát âm sai âm x/s, âm d/gi, âm l/n, một số em ngọng các vần ên/ênh, vần an/ang, vần ân/âng, 
Do vậy trong tiết Tập Đọc tôi luôn lựa chọn những từ có âm đầu và từ ngữ có chứa dấu các âm, vần dễ lẫn để học sinh luyện phát âm. Để tạo sự hứng thú trong học tập tôi đã áp dụng những trò chơi vào các tiết học giúp học sinh vừa học vừa chơi tạo được sự thoải mái trong học tập nhưng đạt kết quả cao.
Trò chơi 1: Thi đọc đúng, đọc nhanh.
Tôi đã cho các em chuẩn bị mỗi em tự nghĩ hoặc sưu tầm một số câu thơ, câu văn có những cặp âm đầu, vần, dấu thanh dễ lẫn lộn ghi vào vở nháp theo yêu cầu của giáo viên. (nhóm 1: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là s/x, nhóm 2: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là d/gi, nhóm 3: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là l/n. Sau đó các em thi đọc trong nhóm. Từng học sinh đọc to rõ câu thơ, câu văn mà mình tìm được để các bạn trong nhóm nghe. Cả nhóm cùng nghe thống nhất đánh giá kết quả của bạn theo tiêu chuẩn đọc to rõ, nhanh, phát âm đúng và xếp theo 3 loại A, B, C hoặc cho điểm theo thang điểm 10. Khi cả nhóm đã đọc xong tính điểm của từng bạn để chọn ra bạn đạt giải nhất, nhì, ba. Cả nhóm bình chọn và tuyên dương những bạn sưu tầm được nhiều câu văn, câu thơ có cặp âm đầu, vần, dấu thanh dễ lẫn lộn và đọc nhanh, to rõ ràng và đúng. Tiếp đó các nhóm cử đại diện và thi trước lớp.
Cả lớp và giáo viên nhận xét tuyên dương những nhóm đọc đúng, rõ ràng và đọc đúng tốc độ qui định.
Giáo viên đưa ra những đề bài gợi ý để học sinh có thể tìm thêm hoặc tự suy nghĩ ra để tham gia vào cuộc thi cùng các bạn.
* Ví dụ 1: Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn lộn.
a. Phân biệt s/x:
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm.
- Cây xanh thì lá cũng xanh.
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
(Tục ngữ)
- Bầu trời xám xịt như sà xuống sát tận chân trời. Sấm rền vang, chớp lóe sáng. Cây sung già trước cửa sổ trút lá theo trận lốc, trở lại những cành xơ xác, khẳng khiu.
b. Phân biệt d/gi:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến ngõ nhà giời
Lạy cậu, lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho Dê đi học.
c. Phân biệt l/n:
- Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.
- Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng.
* Ví dụ 2: Đọc phân biệt các tiếng có vần dễ lẫn
a. Phân biệt vần ên/ênh:
- Cái gì cao lớn lênh khênh
Đứng mà không tựa ngã kềnh ngay ra
- Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào?
b. Phân biệt vần an/ang:
Một năm trời hạn hán
Suối cạn, cỏ héo khô
Lờy gì nuôi đôi bạn
Chờ mưa đến bao giờ
Bê Vàng đi tìm cỏ
Lang thang quên đường về
Dê Trắng thương bạn quá
Chạy khắp nẻo tìm Bê.
c. Phân biệt ươn/ương:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
* Ví dụ 3: Loại bài tập xử lý tình huống:
Loại bài tập này giúp các em phát triển ngôn ngữ nói, luyện tập cho học sinh các nghi thức lời nói. Đặc biệt chương trình SGK đã tạo điều kiện cho học sinh lớp 2 được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở các bài Tập đọc, kể chuyện, Tập làm văn hs được chơi đóng vai, đóng kịch kể lại theo chủ đề của bài học. Học sinh được tham gia đóng các vai ông bà, cha mẹ các cháu nhỏ, người mua hàng, người bán hàng, cô tiên... để luyện tập nghi thức lời nói (nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu đề nghị một việc gì, chào hỏi khi gặp mặt, chai tay, biết đáp lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lời khẳng định, phủ định,...). Hoạt động này nhằm luyện tập học sinh phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa học vừa chơi, vừa phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Với loại bài tập này hình thức tổ chức lớp học sẽ thay đổi, sôi động hơn. Chương trình Tiếng Việt tiểu học mới chú trọng đến loại bài tập tình huống để học sinh học cách thức nói và phát triển khẩu ngữ.
Biện pháp: Để giờ luyện nói đạt hiệu quả cao, bản thân phải nghiên cứu nội dung bài luyện nói thật kĩ để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài học cũng như phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tùy theo nội dung của bài luyện nói giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo đưa ra những tiểu phẩm ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để học sinh tập đóng vai thể hiện ngôn ngữ của mình thật tự nhiên.
Ví dụ: Trò chơi “Chọn lời đúng” tôi đã cho các em sắm vai để xử lí tình huống với nội dung:
+ Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới xách giúp.
+ Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống.
Đồ dùng sắm vai: 1 túi xách to đựng một số vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống.
Học sinh đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho khoảng 1 phút.
- 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi: 1 em đóng vai bạn gái đang xách một chiếc túi to bước đi chạm chạp và nặng nhọc; 1 em đóng vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.
Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, cả lớp cùng bình chọn lời nói đúng, hay và tìm các câu nói khác biểu đạt nội dung đó. Nếu một vai nói đúng 1 câu sẽ được 1 điểm, nói đúng 2 câu sẽ được 2 điểm. Tổng số điểm của hai vai là số điểm của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi.
Sau mỗi tình huống, giáo viên ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì giáo viên cộng điểm và công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng.
* Ví dụ 4: Loại bài tập kể chuyện:
Học sinh kể chuyện đã đọc, đã nghe, kể về những người xung quanh hoặc bản thân.
Bài tập này áp dụng ở môn Tiếng Việt trong bài có nội dung kể chuyện, cần hướng dẫn học sinh có giọng kể thích hợp và diễn xuất theo vai, học sinh nắm nội dung câu chuyện định kể.
Ví dụ: Phân vai dựng lại câu chuyện
Giáo viên chọn bài tập ở tiết Kể chuyện, yêu cầu học sinh phân vai dựng lại câu chuyện trong SGK Tiếng việt 2.
Ví dụ: Chuyện bốn mùa (SGK Tiếng Việt 2 trang 4).
Giáo viên hướng dẫn học sinh dựng lại câu chuyện, học sinh nhập vai và khi kể giọng kể và diễn xuất phải phù hợp với nhân vật. Lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý thái độ, hành động, cử chỉ của nhân vật.
Chuyện Bốn Mùa
Nhân vật: - Người dẫn truyện
- Xuân 
- Hạ
- Thu
- Đông
- Bà Đất
Chuẩn bị một số đồ vật cho các vai diễn xuất. Một vòng hoa cho nàng Xuân, quạt cho nàng Hạ, mâm quả cho nàng Thu, áo ấm khăn ấm cho nàng Đông, trang phục cho Bà Đất.
Cách tiến hành cho học sinh nhập vai học thuộc lời thoại, nắm vững cách thể hiện tình cảm, thái độ, cử chỉ, giọng nói của từng nhân vật.
Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật.
Học sinh đóng vai và kể trong nhóm.
Đại diện các nhóm thi trình diễn trước lớp.
Các nhóm trình diễn xong, bình chọn những cá nhân và nhóm trình diễn hay để tuyên dương, khen thưởng.
Với biện pháp này bản thân thường xuyên thay đổi học sinh để đóng các vai trong từng câu chuyện. Nhờ vậy, những em nhút nhát, sợ sệt, ngại giao tiếp trước tập thể đã có sự tiến bộ, mạnh dạn trong giao tiếp.
Biện pháp:
Giáo viên cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng nói) của nhân vật trong câu chuyện.
Giáo viên hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời và phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, tự nhiên.
Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo “kịch bản” đã chuẩn bị, trình diễn thử với những đạo cụ và bài trí khung cảnh nêu trong kịch bản.
Học sinh trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; giáo viên cho cả lớp nhận xét, bình chọn những học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng.
* Ví dụ 6: Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại:
Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện với nhau, trả lời phỏng vấn, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu có nội dung đề nghị bạn trả lời đúng đồ dùng cho mình.
Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui)
Chuẩn bị:
3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh họa 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ: Giải nhất viết chữ đẹp; một bạn tặng hoa chúc mừng bạn đoạt giải.
Bạn trai tay ôm quả bóng, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ Đội vô địch; một bạn đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch.
Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn trai là tiêu đề cuộc thi: Thi kể chuyện đạo đức về Bác Hồ. Một bạn mang hoa lên tặng bạn trai được giải và nói lời chúc mừng.
5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có điểm 10 và chữ KC (kể chuyện)
Cách tiến hành:
- Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh.
Gợi ý: Hai học sinh đại diện cho một nhóm tham gia chơi, một học sinh đóng vai bạn đoạt giải nhất trong kỳ thi viết chữ đẹp của trường, một học sinh đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn đoạt giải và nói: “Chúc mừng bạn! chúng tớ rất tự hào về bạn!” rồi xiết chặt tay bạn đoạt giải. Bạn đoạt giải đáp: “Mình rất vui! Mình cảm ơn các bạn!”.
- Cứ tiếp tục như vậy, các nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu cho đến tình huống cuối như đã gợi ý. Khi hai học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở cả ba tình huống. Giáo viên làm trọng tài, 2 học sinh giúp giáo viên làm việc.
4. Phương pháp kết hợp với phụ huynh học sinh :
Ngoài việc rèn luyện cho các em trong các tiết học luyện nói của môn Tiếng Việt trên lớp, bản thân thường xuyên gặp gỡ phụ huynh học sinh để trao đổi những tiến bộ và những hạn chế của các em. Bàn bạc tìm ra những biện pháp thích hợp để phụ huynh bày vẻ và rèn cho học sinh biết giao tiếp lịch sự, đúng mực khi ở nhà. Biện pháp này được phụ huynh đồng tình ủng hộ và đem lại hiệu quả rất cao.
KẾ HOẠCH BÀI DẠY
MÔN: TẬP LÀM VĂN
BÀI: ĐÁP LỜI CẢM ƠN - TẢ NGẮN VỀ LOÀI CHIM
I. MỤC TIÊU:
- Rèn kĩ năng nói: Biết đáp lại lời cảm ơn trong giao tiếp thông thường.
- Rèn kĩ năng nói và viết: Bước đầu biết nói thành câu hoàn chỉnh, biết cách tả một loài chim.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- Máy chiếu (đưa các tranh minh họa SGK và một số hình ảnh của một số loài chim khác)
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
THỜI
GIAN
NỘI DUNG KIẾN THỨC 
VÀ KỸ NĂNG CƠ BẢN
PHƯƠNG PHÁP
PHƯƠNG TIỆN SỬ DỤNG
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY
HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
3-5’
1. Kiểm tra bài cũ:
- Yêu cầu 2HS đọc đoạn văn ngắn tả về mùa hè.
- HS đọc.
? Đoạn văn em vừa đọc tả về những sự vật nào?
- HS trả lời miệng.
- Nhận xét cho điểm.
2. Dạy bài mới:
- Giới thiệu bài.
- Nêu mục đích yêu cầu của bài học.
- Lắng nghe.
3. Hương dẫn bài tập
10’
Bài 1: Đọc lại lời các nhận vật trong tranh.
- GV yêu cầu 1.
- 2HS quan sát đọc lại lời nhân vật.
Slide Tranh SGK
- GV nêu yêu cầu 2: Đóng vai nhân vật trong tranh thể hiện lại lời nhân vật.
- 2HS đóng vai diễn đạt lại.
- Nhận xét:
Mở rộng:Đưa tình huống khác
Em bé bị ngã, em đến đỡ dậy. Em bé cảm ơn.
- HS đáp lời.
Slide tranh
10’
Bài 2: Em đáp lời cảm ơn trong các trường hợp sau như thế nào?
- GV yêu cầu 1.
- Đọc yêu cầu của bài.
- Nêu các tình huống trong SGK, lớp đọc thêm theo.
Slide Đưa các tình huống a, b, c
- Yêu cầu 2: Cho HS đóng vai từng tình huống.
- HS đáp lời cảm ơn qua từng tình huống.
- Mở rộng: Yêu cầu nói các cách khác nhau để đáp lời cảm ơn phù hợp.
- HS luyện nói nhiều câu mang nhiều ý diễn đạt nhưng cùng một nội dung.
- Nhận xét những HS nào chưa thật tốt, khen HS nói tốt
15’
Bài 3: Đọc bài văn sau và làm bài tập:
 Chim chích bông
- GV yêu cầu 1.
- HS đọc yêu cầu và nội dung bài tập 3. Chim Chích bông.
Slide
- Lớp đọc thầm.
- Yêu cầu 2: a) Tìm những câu văn tả hình dáng của chim chích bông?
- HS tìm.
- GV sửa câu.
b) Tìm những câu tả HĐ của chim chích bông.
- HS tìm.
- Cho HS luyện nói nhiều, khen HS nói tốt, động viên giúp đỡ hS nói chưa tốt.
- Yêu cầu 3:
- 2-3HS nói miệng đủ 2 ý.
- Yêu cầu 4:
- HS viết 3-5 câu tả về chim chích bông.
- Yêu cầu 5:
-2HS khá giỏi đọc bài
- 2HS trung bình đọc bài.
- GV nhận xét sửa câu, từ, ý
* Chốt kiến thức toàn bài.
- Lắng nghe, trả lời.
3. Củng cố, dặn dò:
- Nhận xét tiết học, tìm hiểu thêm một số loài chim khác.
- Lắng nghe.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Bảng thống kê khả năng nói- giao tiếp của học sinh lớp 2 giữa học kì II năm học 2015-2016.
Sĩ số
Khả năng nói
Nói tốt
Tạm được 
Chưa được 
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
56
36
64%
15
26%
5
10%
Tóm lại, với kết quả hai mặt giáo dục như đã nêu trên, bản thân tin tưởng rằng các em hóc inh khối 2 ở năm học 2015-2016 này sẽ có đủ điều kiện lên lớp 3 để tiếp tục học tập và rèn luyện, trau dồi các kĩ năng luyện nói ngày một tốt hơn. Các em sẽ đủ tự tin khi tiếp cận và lĩnh hội nội dung, chương trình sách giáo khoa mới một cách thuận lợi, dễ dàng.
* Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình dạy và áp dụng những kinh nghiệm trên nhằm góp phần hình thành nên những kĩ năng nói cho học sinh ở lớp 2, tôi cũng đã đọc kĩ và tìm hiểu nội dung chương trình môn học Tiếng Việt của khối, lớp. Điều này rất có ích để bản thân rèn kĩ năng nói tốt hơn cho học sinh.
Bên cạnh đó tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc dạy học, tổ chức các hoạt động trong việc hình thành những thói quen nói lưu loát cho học sinh tiểu học. Cụ thể là:
Người giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, nhiệt tình trong công tác, không ngại khó ngại khổ.
Cần nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình, chuẩn bị bài giảng chu đáo để tiết học thêm phong phú, đa dạng, sôi nổi, các em tiếp thu bài tốt hơn như thế kiến thức sẽ khắc sâu hơn.
Tinh giản các lý thuyết rườm rà, tăng cường thực hành sắm vai, xử lý các tình huống.
Kết hợp tốt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên, đạt hiệu quả cao.
Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết dạy ngoại khóa, các buổi sinh hoạt tập thể với nhiều chủ đề, nội dung phong phú, đa dạng về hình thức tổ chức để cuốn hút các em tham gia.
Trong năm học này, bằng các biện pháp nói trên, bản thân đã tổ chức cho học sinh trong lớp thực hiện tốt những yêu cầu luyện nói đã đề ra, làm cho các buổi học đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Những học sinh chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi giao tiếp với mọi người và khi nói trước tập thể đông người ngày một giảm.
Từ những học sinh khả năng nói chưa tốt, bây giờ các em đã có nhiều tiến bộ về mọi mặt. Kết quả học tập các môn có sự thay đổi rõ rệt. Nhiều học sinh đã chủ động, tích cực, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Việc học bài và chuẩn bị bài ở nhà được các em thực hiện đầy đủ.
Trong tất cả các giờ học và giờ luyện nói trên lớp học sinh đã biết trả lời các câu hỏi của bạn mình và của giáo viên với nội dung đầy đủ, trọn vẹn. Các em biết trả lời một cách rõ ràng, trọn câu, trôi chảy, mạch lạc. Học sinh tự tin, cởi mở khi giao tiếp với bạn bè trong lớp, trong trường, không còn rụt rè hay nhút nhát và trả lời không đủ ý như lúc đầu năm học.
Đa số học sinh trong lớp 2 đến thời điểm này đều có khả năng giao tiếp với bạn bè ở lớp, ở trường và mọi người xung quanh rất tốt. Cụ thể như: Các em đều biết sử dụng lời nói biểu cảm khi giao tiếp để bày tỏ lịch sự, lễ phép của mình. Các em biết giao tiếp lễ phép, lịch sự với thầy cô giáo, các cô chú công nhân viên trong nhà trường, biết cư xử đúng mực.
C. KẾT LUẬN
Khi trẻ bước chân đến trường chúng ta không chỉ dạy cho trẻ văn hóa mà điều quan trọng đi đôi với dạy văn hóa là chúng ta phải cần dạy cho trẻ có một nhân cách tốt. Để sau này trở thành người có tài, có đức cho xã hội.
Do vậy ngay từ đầu cấp tiểu học chúng ta phải xây dựng cho trẻ lòng hiếu thảo với ông bà bố mẹ, yêu quý anh chị, thương yêu em nhỏ, lễ phép với người lớn tuổi, kính trọng thầy cô giáo, giúp đỡ bạn bè biết nói năng lễ phép, lịch sự khi giao tiếp,
Rèn cho học sinh những kiến thức nêu trên bằng nhiều hình thức khác nhau, từ lời nói, cử chỉ, thái độ và việc làm của học sinh.
Để đạt được kết quả cao trong quá trình thực hiện sáng kiến đòi hỏi người giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tận tâm, kiên trì, chịu khó, không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu ham học hỏi của học sinh, uốn nắn cho các em từ những sai sót nhỏ để các em có sự tiến bộ dần. Giáo viên tổ chức khen thưởng, tuyên dương kịp thời cho những học sinh tiến bộ.
Bên cạnh sự nhiệt tình giáo dục của giáo viên trên lớp cần có sự quan tâm của cha mẹ học sinh với việc học tập và giao tiếp của con em mình. Gia đình là một động lực mạnh mẽ giúp học sinh trở thành người con ngoan trò giỏi là người có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong nhiều năm qua, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, bản thân nhận thấy việc đổi mới chương trình SGK là một việc làm vô cùng hợp lý và đáng hoan nghênh. Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 mới đã thực sự quan tâm, đưa ra những chủ đề, những bài tập thực hành thực sự phù hợp cho việc rèn kỹ năng “nói” cho học sinh lớp 2.
Bên cạnh đó, môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình sẽ chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Rất mong được BGH nhà trường, tổ chuyên môn cùng các đồng nghiệp đóng góp bổ sung để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2016
T«i xin cam ®oan ®©y lµ s¸ng kiÕn kinh nghiÖm do m×nh viÕt kh«ng sao chÐp néi dung cña ng­êi kh¸c
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. Lí do chọn đề tài	1
1. Cơ sở lí luận	1
2. Cơ sở thực tiễn	2
II. Mục đích nghiên cứu	2
III. Giới hạn phạm vi nghiên cứu	3
IV. Phương pháp nghiên cứu	3
V. Khách thể và đối tượng nghiên cứu	3
VI. Nhiệm vụ nghiên cứu	3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng của vấn đề	4
1. Đặc điểm tâm lí học sinh	4
2. Thực trạng ngôn ngữ của lớp 2	4
II. Các phương pháp tổ chức thực hiện	5
1. Phương pháp quan sát	5
2. Phương pháp phân tích – tổng hợp	6
3. Phương pháp thực hành luyện tập	7
4. Phương pháp kết hợp với hụ huynh học sinh	13
III. Kết quả đạt được	16
C. KẾT LUẬN	18
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT SKKN

File đính kèm:

  • docbien_phap_ren_ki_nang_noi_trong_gio_day_tieng_viet_cho_hoc_s.doc