Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh lớp 3 giải những dạng toán điển hình

Trong các nhà trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng, môn Toán với tư cách là môn học độc lập, nó cùng với các môn học khác góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán được coi là một môn học có vai trò quan trọng. Khả năng giáo dục của môn Toán rất to lớn, nó góp phần giúp học sinh phát triển tư duy lôgíc, bồi dưỡng các thao tác trí tuệ cần thiết để nhận biết thế giới hiện thực.

Môn Toán là một môn học khó và cần thời gian nhiều, nó cung cấp khối lượng kiến thức rộng, đòi hỏi sự chính xác cao và luôn mang tính cập nhật theo thực tế nhu cầu cuộc sống đặt ra.

Chính vì môn Toán có tác dụng to lớn như vậy nên ở mỗi bậc học môn Toán chiếm một thời lượng lớn. Trong chương trình toán ở Tiểu học cũng như chương trình toán lớp 3 gồm 4 mạch kiến thức cơ bản: Trong đó giải các bài toán có lời văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Việc dạy học giải toán giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của con người mới.

 Giải toán là một mạch kiến thức cơ bản của toán học nó không chỉ giúp cho học sinh thực hành vận dụng những kiến thức đã học mà còn rèn cho học sinh khả năng diễn đạt ngôn ngữ qua việc trình bày lời giải một cách rõ ràng, chính xác, khoa học, thông qua việc giải toán có lời văn học sinh được giáo dục nhiều mặt trong đó có ý thức đạo đức.

 

doc 15 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 1700
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh lớp 3 giải những dạng toán điển hình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh lớp 3 giải những dạng toán điển hình

Báo cáo biện pháp Hướng dẫn học sinh lớp 3 giải những dạng toán điển hình
dạy học giải toán ở Tiểu học nói chung và giải các bài toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng
	- Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán và các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú những vấn đề thường gặp trong đời sống.
	- Nhờ giải toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phần cần thiết vì giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái cần tìm. Trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
	- Dạy học giải toán giúp học sinh phát hiện giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra quy tắc ở dạng khái quát.
	- Trong chương trình Toán 3 thì giải toán cũng là một mạch kiến thức khác và có ý nghĩa đặc biệt trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt qua việc giải các bài toán có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị là các dạng toán có ý nghĩa thực tiễn liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Vì vậy nó được coi là cầu nối giữa toán học và thực tiễn, chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Toán 3.
	2. Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
	a. Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học được học thành 4 tiết lý thuyết và 3 tiết thực hành, cụ thể:
	+ Chu vi hình chữ nhật, chu vi hình vuông.
	+ Diện tích hình chữ nhật, diện tích hình vuông.
	b. Nội dung dạy các bài toán có lời văn liên quan đến rút về đơn vị được học thành 2 tiết, cụ thể:
	+ Tiết 122: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị (giải bằng phép tính chia và phép tính nhân.
	+ Tiết 157: Bài toán được giải bằng 2 phép tính chia.
	3. Yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt được
	a. Bài toán có nội dung hình học
	- Biết tính độ dài đường gấp khúc.
	- Biết tính chu vi diện tích hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc).
	b. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
	- Học sinh biết giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn, có đến hai bước tính liên quan đến rút về đơn vị.
	4. Các dạng bài tập
	a. Các bài tập có nội dung hình học
	- Bài tập về “Nhận biết hình” (nhận dạng hình)
	- Bài tập về “xếp ghép hình” chẳng hạn từ 8 hình tam giác bằng nhau xếp thành cac hình như ở trang 71, trang 82 sách toán 3.
	Ví dụ: Bài 4 trang 82 - Toán 3.
- Bài tập về ‘Tính chu vi” hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc)
- Bài tập về :Tính diện tích” các hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc)
- Bài tập về “Thực hành” chẳng hạn gấp giấy để tạo thành mép vuông (bài 4 trang 43 sách toán 3) hoặc gấp tờ giấy hình chữ nhật để xác định trung điểm của đoạn thẳng (Bài 2 trang 99 sách toán 3).
	b. Các dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
	- Là một dạng của toán hợp giải bằng hai phép tính. Bài toán được xây dựng từ hai bài toán đơn là ý nghĩa thực tế của phép nhân hoặc phép chia, chẳng hạn:
	+ Dạng 1: Bài toán “Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo ?”
	Từ cách hiểu trên ta hướng dẫn học sinh giải bằng 2 phép tính, mỗi phép tính ứng với một bài toán đơn tạo thành tương ứng:
	Bài giải:
Số ki-lô-gam gạo trong mỗi bao là:
28 : 7 = 4 (kg)
Số ki-lô-gam gạo trong 5 bao là:
4 x 5 = 20 ( kg)
Đáp số: 20 kg
	+ Dạng 2: Bài toán “Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi 15 kg đường đựng trong mấy túi như thế ?
	Được xây dựng từ hai bài toán đơn: “ Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi mỗi túi đựng bao nhiêu ki-lô-gam đường ?” và bài toán: “Mỗi túi đựng 5 kg đường. Hỏi 15 kg đường đựng trong mấy túi như thế ?
	Bài giải:
Số ki-lô-gam đường đựng trong mỗi túi là:
40 : 8 = 5 (túi)
Số túi cần để đựng 15 kg đường là:
15 : 5 = 3 (túi)
Đáp số: 3 túi
	- “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” được hiểu là bài toán mà trong cách
 giải trước hết cần thực hiện ở bước 1 là: “tính giá trị một đơn vị của đại lượng nào đó” hay cần phân tích rút về đơn vị. Bước 2 là “Tính kết quả và trả lời câu hỏi của bài toán”. Cách giải thường là: “Gấp lên một số lần” hoặc ‘Số lớn gấp mấy lần số bé”.
	5. Phương pháp dạy học giải bài toán điển hình ở lớp 3
	 - Phương pháp dạy học toán là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm đạt được mục tiêu dạy học toán.
	- Phương pháp dạy học toán là sự vận dụng một cách hợp lý phương phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn toán mà vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học sau: Phương pháp thực hành luyện tập gợi mở, vấn đáp, giảng giải, minh họa.
	II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
 	1. Thực trạng việc dạy học giải toán có lời văn của giáo viên
	- Muốn học sinh học tập đạt kết quả thì vấn đề đặt ra cần phải đề cập đến là phương pháp giảng dạy, là cách thức tổ chức hoạt động học tập cho học sinh và quan trọng hơn cả là người giáo viên có trình độ kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm giảng dạy
	Để nghiên cứu sáng kiến này tôi đã khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học có kết quả như sau:
	- Qua điều tra thực tế dạy học môn Toán của giáo viên trường Tiểu học Kim Giang, tôi nhận thấy một thực trạng như sau:
	+ Về trình độ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong quá trình giảng dạ có nhiều cố gắng đạt mục tiêu bài dạy, có ý thức nâng cao tay nghề.
	+ Xong việc vận dụng những kiến thức đã có vào việc giảng dạy còn có nhiều hạn chế, lúng túng, vụng về, thiếu linh hoạt.
	+ Năng khiếu sư phạm còn hạn chế dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải bài toán đôi khi còn thiếu chính xác. Kiến thức cơ bản nhiều khi còn bị lãng quên, sự đầu tư vào chuyên môn chưa nhiều dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa cao.
	VD: Khi hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên chưa khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải khác nhau, chưa cho học sinh thấy được ý nghĩa thực tiễn của nó trong cuộc sống.
	2. Thực trạng việc học giải toán điển hình của học sinh lớp 3	
	Trong khi nghiên cứu đề tài này tôi đã điều tra học sinh lớp 3a7 của trường Tiểu học Kim Giang. Tôi nhận thấy học sinh yếu, kém giải toán có lời văn có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị hay mắc phải sai lầm như sau:
	- Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu bài toán chưa đúng, không biết bài toán thuộc loại toán nào dẫn đến việc áp dụng công thức, quy tắc nhầm, lẫn lộn với nhau, kết quả giải toán bị sai.
	+ Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật.
	+ Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì học sinh yếu, kém không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật.
	+ Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình (Bài 3 trang 155- Toán 3) khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích các cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. 
	- Học sinh yếu kém nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu.
	- Học sinh yếu còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4.
	- Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai.
	3. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
	a. Nguyên nhân khách quan
	- Một số gia đình chưa thực sự quan tâm động viên các em kịp thời cũng như tạo điều kiện tốt hơn để các em học tập.
	b. Nguyên nhân chủ quan
	- Giáo viên: Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh yếu, kém không theo kịp. Một số giáo viên còn thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh. Việc đầu tư cho chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa nắm vững yêu cầu về kỹ thuật và kỹ năng của bài toán, chưa quan tâm đến học sinh yếu, kém.
	- Học sinh:
	+ Sự phát triển nhận thức của một số em còn chậm, không đồng đều, hoạt động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin.
	+ Ngoài ra, có em do sức khỏe chưa tốt, gia đình chưa quan tâm đến việc học hành của các em. Một số phụ huynh do không nắm được cách giải toán ở tiểu học nên không hướng dẫn được cho các em hoặc hướng dẫn các em những cách giải toán của bậc Trung học cơ sở.
	Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ là một số nguyên nhân mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho cac em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập không tốt.
	Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí.
	III. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
	Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc ghép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữTổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây.
	1. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán
	Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). 	
	Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm của một hình vẽ là rất quan trọng.
	Ví dụ:	 Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ.
+ Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật.
	+ Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. 
Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính.
	Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ?
	Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này.
	*Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị:
	 Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu càu tính cái gì? Bài toán thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài toán.
	Ví dụ:
	+ Bài toán ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia rồi mới tìm được giá trị của nhiều phần (thực hiện phép tính nhân).
	+ Bài toán chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu của bài toán.
	*Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cach giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước:
	+ Tính toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì?
+ Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của 
bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng.
	+ Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số.
	2. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình	
	 Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán.
	- Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất
	Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải. 
	*Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
	Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng toán 2. Vận dụng công thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất quan trọng.
	Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp.
	3. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải
	Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải 
cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý
	*Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo.
	*Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. 
	Khi học giải toán xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ thiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng sai Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải.
	*Ngoài ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, phải luôn tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản thân.
	IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
	Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải các bài toán có nội dung hình học và dạng toán liên quan đến rút về đơn vị ngày càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của bài toán.
	Lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài toán điển hình. Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao song bản thân tôi cũng thấy vui và tự tin vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện.
Phần III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
	I. Kết luận
Nội dung dạy học giải các dạng toán điển hình là một trong những nội dung dạy học quan trọng . Đây là nội dung dạy học tương đối khó với giáo viên và học sinh. Mà rèn kĩ năng giải toán tốt cho học sinh lớp 3 không những giúp các em phát triển tư duy sáng tạo mà còn giúp học sinh biết và vận dụng được phương pháp giải toán trong thực tế cuộc sống và giúp các em vận dụng các kiến thức học được trong nhà trường vào cuộc sống hàng ngày.
Để đạt được kết quả cao trong tiết dạy, giáo viên cần đầu tư thời gian và biết vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với mỗi nội dung dạy học, giúp học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động và hứng thú trong học tập. Người giáo viên phải kiên trì vượt khó, tìm tòi sáng tạo, thực sự say mê nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao, đặt chất lượng học tập của học sinh lên hàng đầu.
	- Phải nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định đúng kiến thức của bài, thiết kế kế hoạch bài học phù hợp với trình độ của học sinh lớp mình phụ trách. Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực hóa người học. Sau mỗi bài cần nhấn mạnh, khắc sâu kiến thức cơ bản trọng tâm và đề ra phương pháp vận dụng thực hành chung cho từng dạng toán.
- Khi dạy giải toán cần rèn cho học sinh đọc kỹ đề bài, hiểu đề bài, nhận biết được dữ liệu đã cho và yêu cầu cần tìm trong mỗi bài toán, nhận biết mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Hiểu và nhận biết được các từ, thuật ngữ, khái niệm toán họcBiết tóm tắt và giải toán bằng sơ đồ, hình vẽ.
	- Thường xuyên hệ thống, củng cố lại kiến thức thông qua các tiết ôn tập, luyện tập để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh. Từ đó giúp các em nhận dạng dễ dàng và nắm vững phương pháp, cách giải của từng loại toán có lời văn.
	II. Khuyến nghị
 Hiện nay, theo xu thế đổi mới của ngành giáo dục: Yêu cầu phải đổi mới nội dung chương trình, đổi mới về phương pháp, đổi mới về trang thiết bị dạy học. Do đó tôi có một số đề xuất như sau:
1. Về nội dung, chương trình và sách giáo khoa
Nội dung dạy học giải các dạng toán điển hình là tương đối nhiều. Do vậy để rèn được kỹ năng giải toán tốt hơn cho tất cả các đối tượng học sinh, không phải là việc làm dễ đối với mỗi giáo viên khi dạy. Chính vì thế giáo viên cần nghiên cứu kỹ và tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với nội dung mỗi tiết bài cụ thể. Các nhà trường cũng như các giáo viên phải biết tận dụng quỹ thời gian của các buổi học trên 5 buổi/tuần để rèn kỹ năng giải bài toán cho học sinh.
2. Về phương pháp
Giáo viên phải biết sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung mỗi bài cũng như đối với từng đối tượng học sinh. Kết hợp các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giúp học sinh biết sử dụng tư duy tái hiện, tư duy sáng tạo và tư duy tích cực.
3. Về đồ dùng dạy học
Giáo viên nên sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
4. Đối với nhà trường
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề hơn cho giáo viên tham dự và học hỏi.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên có điều kiện sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại trong từng tiết học.
5. Đối với các cấp quản lý
- Nên tổ chức các lớp tập huấn, tổ chức chuyên đề nhiều hơn trong năm học để giáo viên có thêm kinh nghiệm giảng dạy.
- Cung cấp tài liệu, chuyên san kịp thời cho giáo viên nghiên cứu và học tập.
 - Để thực hiện được công việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi, uốn nắn các em, hướng dẫn các em thực hành thường xuyên nhất là đối với học sinh yếu.
 - Cần chú ý những học sinh cá biệt vì các em chậm chạp hơn so với các bạn trong lớp, giáo viên nên hướng dẫn cho em nhiều hơn hoặc chỉ định bạn học giỏi giúp đỡ em nhiều hơn để em thực hiện được như các bạn. 
 	Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện nghiên cứu và tích lũy và vận dụng. Trong quá trình nghiên cứu, do khả năng bản thân có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp quản lý và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn !
 Hà Nội, ngày 5 tháng 3 năm 2020
 Người viết
 Nguyễn Thị Linh

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_lop_3_giai_nhung_dang_t.doc