Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu Lớp 3

Tiếng Việt là một môn học ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Với tư cách là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học. Luyện từ và câu có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao tiếp và học tập. Đây là nhiệm vụ chính yếu, cuối cùng của dạy từ và câu ở Tiểu học. Dạy luyện từ chính là dạy thực hành từ ngữ trên quan điểm giao tiếp, dạy từ trên bình diện phát triển lời nói. Đó chính là công việc làm giàu vốn từ cho học sinh, giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ, nắm nghĩa của từ, luyện tập sử dụng từ. Từ đó giúp học sinh nói năng đúng chuẩn, phù hợp với mục đích và môi trường giao tiếp đồng thời góp phần rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần không nhỏ làm lên điều này. So sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy, đối với tác phẩm văn học nói chung so sánh mang chức năng nhận thức và biểu cảm.

docx 22 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 1720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu Lớp 3

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu Lớp 3
ăng như quả cau phơi.
Trăng như quả chuối vàng tươi.
Bước 4 : Nhận xét, bổ sung.
Biện pháp 3: Sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp vào dạy tu từ so sánh.
Khi sử dụng phương pháp này vào dạy giáo viên sẽ đưa ra những tình huống để học sinh đặt mình vào hoàn cảnh nói, tạo ra những câu có hình ảnh so sánh phù hợp.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu tuần 12 học sinh được học so sánh hoạt động với hoạt động. Sau khi học sinh làm xong bài tập 2 tìm các hoạt động được so sánh với nhau trong các khổ thơ, đoạn văn để học sinh có thể tạo ra các câu có hình ảnh so sánh GV đưa ra tình huống :
Bước 1: Chuẩn bị tình huống
Em và bác hàng xóm đang đi trên đường bỗng nhìn thấy phía trước có một tên cướp giật đồ của một cô gái rồi bỏ chạy. Bác hàng xóm đã đuổi kịp tên cướp và lấy lại đồ cho cô gái. Bằng phép so sánh, em hãy tả lại hành động chạy của bác hàng xóm lúc đó.
Bước 2 : Hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống. Cho HS sắm vai các tình huống, các học sinh nhận xét, bổ sung hoặc nêu ra hình ảnh so sánh khác.
Nam: Hải này, cậu biết không bác hàng xóm nhà tớ rất dũng cảm.
Hải: Sao cậu lại bảo bác ấy dũng cảm?
Nam: Hôm trước tớ chứng kiến bác ấy đuổi theo một tên cướp lấy lại túi xách cho một cô gái đấy.
Hải: Bác ấy chạy nhanh thế cơ à?
Nam: Ừ, bác chạy nhanh như ma đuổi ấy .
Bước 3: Nhận xét, bổ sung, đưa ra các hình ảnh so sánh khác nếu có. GV cho HS nhận xét về cách so sánh của bạn Hải.
Con có nhận xét gì về cách so sánh của bạn Hải? “Chạy như ma đuổi” là miêu tả người chạy nhanh trong tình huống nào?
Con có thể thay hình ảnh so sánh đó bằng hình ảnh so sánh nào? HS có thể nói: Bác ấy chạy như tên bắn.
Bác ấy chạy nhanh như gió. Bác ấy chạy nhanh như cắt.
Từ tình huống GV đưa ra có thể giúp học sinh thấy được trong giao tiếp muốn hình ảnh so sánh có phù hợp không thì phải đặt trong văn cảnh.
Biện pháp 4: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy tu từ so sánh. Mục đích của việc thảo luận nhóm là đưa HS vào trong giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, để từ đó tự hình thành, củng cố, khắc sâu kiến thức và rèn luyện kĩ năng sử dụng phép so sánh trong giao tiếp. Qua hoạt động nhóm, giáo viên đánh giá được khả năng nắm kiến thức và vận dụng kiến thức về so sánh tu từ trong giao tiếp của học sinh.
Phương pháp này rất phù hợp với việc dạy tu từ so sánh. Có thể sử dụng biện pháp này cho cả hai dạng bài tập: bài tập nhận dạng và bài tập vận dụng.
Ví dụ : Luyện từ và câu tuần 3:
Các bước tiến hành:
Bước 1: Phân nhóm (nhóm cùng bàn)
Bước 2: Phát phiếu bài tập, HS thảo luận và cùng nhau giải quyết các câu hỏi trong phiếu.
Phiếu bài tập
Tìm các hình ảnh so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây:
Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn dến tận Cà Mau cuối trời.
Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây tùng chùm.
Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
Bước 3: Yêu cầu các nhóm thảo luận, gạch dưới hình ảnh so sánh.
Bước 4: Đại diện nhóm trình bày.
Bước 5: Nhận xét, bổ sung.
Vận dụng phương pháp này học sinh tham gia rất tích cực, sôi nổi. Khi được học nhóm HS phát triển khả năng giao tiếp, bày tỏ quan điểm cũng như rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề khó khăn.
Biện pháp 5: Ứng dụng phương pháp trò chơi học tập vào dạy tu từ so sánh:
Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện, học là mục đích. Thông qua hình thức chơi mà học sinh sẽ được hoạt động, tự củng cố kiến thức. Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả cần xác định được mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi phải đơn giản, dễ hiểu.
Ví dụ trò chơi: Thử tài so sánh:
Mục đích : Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo các cụm từ có hình ảnh so sánh đúng.
Chuẩn bị :
Làm các bộ phiếu bằng giấy (kích thước 3 x 4)
Mỗi bộ phiếu từ 3 đến 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái, đặc điểm
Ví dụ: Bộ phiếu 5 từ chỉ màu sắc : trắng, xanh, đỏ, vàng, đen (dành cho tiết 15 luyện đặt câu có hình ảnh so sánh)
Phiếu gấp đôi để tự bốc thăm
Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi.
Một bộ phiếu 5 từ dành cho 5 người thử tài
HS 1 lên bốc thăm mở phiếu đọc từ cho bạn nghe rồi nêu thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
Ví dụ:	HS 1 bốc thăm được từ “trắng” - có thể nêu cụm từ “trắng như vôi/trắng như tuyết/ trắng như trứng gà bóc.
Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng/ Sai
Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm.
Nếu trọng tài đếm từ 1 đến 5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm.
Lần lượt 5 HS lên bốc thăm thử tài, hết 5 phiếu thì về chỗ, thư kí công bố kết quả.
Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra một người có tài so sánh nhất là người thắng cuộc.
Cách tiến hành này có thể thay đổi linh hoạt. Có thể mỗi học sinh bốc cả 5 phiếu. Mỗi phiếu chỉ nêu một cụm từ, người tiếp theo không được lặp lại cụm từ của người trước. Hoặc có thể tổ chức theo nhóm, nhóm nào nêu được nhiều cụm từ nhất sẽ thắng.
Biện pháp 6: Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ thống bài tập mở rộng.
+Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.
 Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
Cánh diều no gió Tiếng nó chơi vơi Diều là hạt cau Phơi trên nong trời.
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày.
Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đuôi xòe rộng như một dải lụa màu da cam còn khoan thai uốn lượn mãi.
Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp.
Đáp án:
Diều là hạt cau
Hoa lựu như lửa lập lòe
Đuôi(cá vàng) xòe rộng như một dải lụa màu da cam
Hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp
Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau:
Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui Bà nhìn: như hạt cau phơi
Cháu cười : quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
Dưới gốc phượng già, những cánh hoa phượng rụng phủ kín mặt đất như tấm thảm đỏ.
Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời
rực rỡ.
Đáp án: a) là	b) tựa , như	c) như	d) như
Bài 3: Tìm các từ so sánh điền vào chỗ trống để tạo thành câu có hình ảnh so sánh.
Hai chân chích bông xinh xinh	hai chiếc tăm.
Rễ cây nổi lên mặt đất thành hình thù kỳ quái	những con rắn hổ
mang giận dữ.
Trăm cô gái	tiên sa.
Đáp án: Có thể là: a) giống như	b) như	c) tựa
Bài 4: Điền các bộ phận của phép so sánh trong mỗi câu sau vào ô trống cho phù hợp:
Những giọt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.
Hàng trăm bông hoa giấy thắm đỏ nở đồng loạt như một tấm thảm đỏ rực.
Trên trời có một cô mây rất đẹp. Khi thì cô mặc áo trắng như bông, khi thì thay áo màu xanh biếc, lúc lại đổi áo màu hồng tươi.
Sự vật A
Đặc điểm so sánh
Từ so sánh
Sự vật B
Đáp án:
Sự vật A
Đặc điểm so sánh
Từ so sánh
Sự vật B
Giọt sương sớm Bông hoa giấy
Áo (mây)
long lanh đỏ
trắng
như như
như
bóng đèn pha lê tấm thảm
bông
Tôi đưa bài tập trên nhằm giúp học sinh nhận dạng được câu văn có hình ảnh so sánh, nắm vững mô hình, cấu trúc của câu văn so sánh cũng như phân biệt rõ các thành phần trong câu văn có hình ảnh so sánh. Đây là cơ sở để học sinh thực hành và viết các câu văn có hình ảnh so sánh hay.
Bài 5: Tìm những hình ảnh so sánh thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất:
lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
cuồn cuộn chảy như những con ngựa tung bờm phi nước đại.
Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như ..
Trăng rằm trung thu tròn như 
Đây là bài tập không phải là khó, nhưng để làm tốt bài bập này thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát, suy nghĩ, liên tưởng để tìm ra những sự vật có nét tương đồng với sự vật đã cho, từ đó tạo câu văn có hình ảnh so sánh.
Ví dụ: Trong câu a, con thấy có những sự vật nào giống như một cánh diều? (mặt trăng lưỡi liềm, hạt cau, dấu á)
? Trong các sự vật trên, có sự vật nào ta thấy lơ lửng được trên không? (mặt trăng lưỡi liềm)
Từ đó học sinh chọn được hình ảnh phù hợp điền vào chỗ trống để tạo thành câu văn đúng và hay: Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
Tương tự với các trường hợp còn lại, học sinh sẽ viết được những câu văn có hình ảnh so sánh như:
Dòng sông mùa lũ cuồn cuộn như những con ngựa tung bờm phi nước đại.
Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như những đám mây bồng bềnh trên ngọn cây.
Trăng rằm trung thu tròn như cái đĩa./ như quả bóng bay
Bài 6: Em hãy lựa chọn những từ ngữ trong ngoặc thay thế các từ in nghiêng và thêm từ “như” để câu văn có hình ảnh so sánh:
Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển đẹp quá.
Nắng mai hồng rất đẹp trải dài trên con đường làng quê em.
Đôi cánh gà mẹ xòe ra chắc chắn che chở cho các chú gà con.
(cánh bướm dập dờn, dải lụa đào, chiếc nơ, hai mái nhà, chiếc ô)
Bài tập này với mục đích bước đầu cho học sinh làm quen với việc viết câu văn có hình ảnh so sánh để diễn đạt sự vật sao cho sinh động. Bằng hiểu biết và óc liên tưởng của mình các em sẽ lựa chọn được những từ ngữ thích hợp để thay thế.
Đáp án:
Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển như những cánh bướm dập dờn
Nắng mai hồng như dải lụa đào trải dài trên con đường làng quê em.
Đôi cánh gà mẹ xòe ra như hai mái nhà che chở cho các chú gà con.
+ Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
Bài 1: Gạch dưới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dưới đây. Trong các hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao?
Trông trống mới oai vệ làm sao! Thân trống tròn trùng trục như cái chum sơn đỏ. Bụng trống phình ra, hai đầu khum lại.
Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời rực rỡ.
Lá phượng giống lá me, mỏng, ngon lành như những hạt cốm non. Những cành cây mập mạp như hàng trăm cánh tay đưa ra đón ánh áng mặt trời để sưởi ấm cho mình.
Đáp án: (hình ảnh so sánh: phần gạch chân)
Tiếp đó tôi yêu cầu học sinh chọn hình ảnh mình thích và giải thích lý do vì sao? (VD: Hình ảnh hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời thể hiện sự quan sát tinh tế, bất ngờ của tác giả khi tìm ra được hình ảnh “vầng mặt trời” để so sánh với “hàng ngàn lá cọ”. Vì vậy câu văn khi đọc lên thấy thật thú vị.)
Bài 2: Trong các câu văn sau em thấy câu nào hay nhất? Vì sao?
Những chùm hoa phượng đỏ.
Những chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây.
Những chùm hoa phượng đỏ như son.
Các câu văn trên cùng là viết về hoa phượng nhưng mỗi câu lại có cách diễn đạt khác nhau. Tôi yêu cầu học sinh so sánh câu thứ nhất và câu thứ hai, câu nào
hay hơn, vì sao? Tất cả học sinh trong lớp tôi đều khẳng định câu thứ hai hay hơn vì đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh để miêu tả màu sắc của hoa phượng. Tiếp đó tôi cho học sinh so sánh câu thứ hai với câu thứ ba. Khi học sinh đều khẳng định câu thứ ba không hay bằng câu thứ hai và học sinh diễn đạt lý do theo ý hiểu của mình vì sao cùng sử dụng phép so sánh mà câu thứ hai lại hay hơn, tôi chốt lại cho học sinh hiểu: Ở câu thứ hai tác giả dùng hình ảnh “chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây”, một hình ảnh rất đẹp, rất sinh động để làm cho màu sắc của hoa phượng trở nên đẹp hơn, câu văn hay hơn và có sức gợi tả. Còn ở câu thứ ba thì màu hoa phượng được so
sánh với màu son, tuy có điểm giống nhau nhưng cách so sánh đó chưa sinh động và còn làm giảm đi vẻ đẹp của hoa phượng. Câu văn trở nên khô khan, kém hay hẳn đi.
Như vậy, qua phân tích học sinh sẽ lựa chọn được câu văn hay và các em còn hiểu được: khi so sánh, muốn cho sự vật miêu tả được đẹp và sinh động thì cần so sánh với một sự vật khác đẹp hơn và như thế câu văn có được sức gợi tả, gợi cảm cho người đọc.
+ Bài tập dạng vận dụng biện pháp tu từ so sánh
Bài 1: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh động, gợi cảm hơn:
Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti.
Bà của em đã già, tóc của bà bạc lắm.
Bầy chim non đang hót trong nắng mai.
Với bài tập này học sinh sẽ suy nghĩ và viết lại câu văn theo ý mình. Tôi chú ý hướng dẫn, chữa cho các em nhưng không áp đặt theo ý cô. Đồng thời, tôi ghi nhanh một số câu văn hay lên bảng cho các em khác học tập.
Ví dụ:
Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm trải khắp trên cành cây.
Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây.
Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hòa tấu.
Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi lại ra một số bài tập ở mức độ khó hơn.
Bài 2: Hãy dùng biện pháp so sánh để diễn đạt về mỗi sự vật sau: ông mặt trời, cánh đồng lúa, dòng sông, hoa hồng.
Loại bài tập này khó hơn, đòi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng thật phong phú kết hợp với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể viết được những câu văn có hình ảnh so sánh hay. Tôi cũng có biện pháp hướng dẫn cụ thể các em học sinh yếu bằng cánh sau khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà chưa có được câu văn hay thì tôi sẽ đưa một vài câu văn làm mẫu để các em tích lũy làm tư liệu cho mình.
Ví dụ:
Ông mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhô lên ở phía đằng đông.
Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng như một tấm thảm khổng lồ.
Dòng sông uốn quanh như một dải lụa chia đôi hai làng.
Những đóa hồng nhung dịu dàng và kiêu sa như những nàng tiên.
Bài 3 (Dành cho học sinh khá giỏi)
Cô giáo em
Hiền như cô Tấm Giọng cô đầm ấm Như lời mẹ ru.
Từ ý thơ trên, em hãy viết đoạn văn ngắn tả cô giáo em.
Đây là dạng bài tập khó nên tôi chỉ yêu cầu đối với học sinh giỏi để các em bồi dưỡng thêm về kiến thức cũng như cách cảm thụ văn học và sẽ phục vụ tốt cho những bài văn miêu tả của lớp 4, 5. Với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng
của học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn sẽ tốt hơn. Trong các bài tập vận dụng biện pháp so sánh để câu văn trở nên hay hơn, bài viết sinh động hơn sẽ không còn là một việc khó đối với các em.
Biện pháp 7: Giúp học sinh nhận biết biện pháp so sánh thông qua các câu đố dân gian
Kho tàng câu đố dân gian thật phong phú và đa dạng. Nó phản ánh những thuộc tính, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nó vừa có chức năng bồi dưỡng tri thức, vừa có chức năng giải trí cho con người. Trong số đó, cha ông ta cũng đã biết sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ sự vật cần phải tìm nhưng không quá lộ. Dựa vào điều đó tôi đã sưu tầm và tích luỹ một số câu đố có sử dụng biện pháp so sánh. Sau một số bài học tôi đưa ra một số câu đố có sử dụng phép so sánh để hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm về nghệ thuật so sánh.
VD:	a.	Vừa bằng lá tre
Ngo ngoe dưới nước.
(Là con gì?)
b. Hè về áo đỏ như son
Hè đi thay lá xanh non mượt mà Bao nhiêu tay tỏa rộng ra
Như vẫy như đón bạn ta đến trường
(Là cây gì?)
c. Ao tròn vành vạnh Nước lạnh như tiền Con gái như tiên Trần mình xuống lội
(Là cái gì?)
Để khai thác câu đố a, tôi hỏi học sinh như sau:
+ Em có nhận xét gì về câu đố trên?
(Câu đố có sử dụng so sánh nhưng ẩn sự vật so sánh)
+ Sự vật dùng để đối chiếu trong câu đố trên là gì? (Là lá tre)
+ Em cần phải dựa vào chi tiết nào nữa để tìm ra lời giải? (Dựa vào chi tiết: Ngo ngoe dưới nước)
+ Vậy sự vật so sánh ở đây là sự vật nào? (Là con đỉa)
Với các câu đố tôi đưa ra các em rất thích thú và tìm cách giải. Qua những câu đố như vậy các em cũng sẽ được khắc sâu kiến thức của mình về cách tìm sự vật có nét tương đồng với sự vật đã cho.
KẾT QUẢ:
Sau một thời gian sử dụng các biện pháp trên vào giảng dạy, để nắm được kết quả học tập của học sinh lớp tôi về biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trong lớp 3D với phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
Bài 1: Đọc các câu thơ, câu văn sau rồi làm bài tập bằng cách điền vào bảng:
Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm trải khắp trên cành cây.
Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây.
Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hòa tấu.
Câu
Sự vật được so sánh
Từ so sánh
Sự vật so sánh
a)
.....................................
................
....................................
b)
.....................................
.....................
...................................
c)
.....................................
.....................
...................................
Bài 2 : Khoanh tròn vào chữ trước câu có hình ảnh so sánh:
Nắng là ánh sáng của mặt trời.
Nắng là từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
Nắng tạo ra từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
Bài 3: Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh:
Trăng đầu tháng lơ lửng giữa trời như .
Sóng biển cuồn cuộn chảy như ...
Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển như ...................
Bài 4: Em hãy một đoạn văn khoảng 4 - 5 câu kể về mẹ của em, trong đoạn văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh.
Qua phiếu bài tập tôi đã nhận thấy rõ sự tiến bộ của học sinh. Ở bài tập số 1 hầu hết các em làm rất tốt, chỉ có bài tập số 2 vẫn còn một số ít em nhầm lẫn. Riêng bài tập số 3 các em đã biết chọn những sự vật phù hợp để so sánh với sự vật cho trước một cách hợp lý và thể hiện được tính nghệ thuật trong câu văn.
Mục tiêu chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu là rèn kỹ năng dùng từ đặt câu. Từ đó bồi dưỡng tình cảm quý trọng tiếng Việt, thói quen dùng từ và viết câu đúng, có ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp đạt được phẩm chất văn hoá. Bám sát mục tiêu môn học, áp dụng các biện pháp dạy phép so sánh trong Luyện từ và câu, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm trong giảng dạy có hiệu quả.
Trong việc vận dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, trải nghiệm đối với các đối tượng học sinh , tôi nhận thấy đã đạt được một số kết quả khả quan:
Các em yêu thích môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Luyện từ và câu, vui vẻ, hào hứng, hăng say trong học tập.
Các em hoàn thành tương đối tốt các bài tập vận dụng, thực hành, các lỗi học sinh mắc đã giảm rõ rệt . Cụ thể như sau:
Lỗi nhận diện phép so sánh
Lỗi vận dụng phép so sánh
Nhận diện các sự vật so sánh
Nhận diện các từ so sánh
Chưa tạo được hình ảnh so sánh hoặc hình
ảnh chưa hợp lí
Chưa cảm nhận
được giá trị phép so sánh
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số
lượng
%
3/55
5,5
2/55
3,6
5/55
9,1
6/55
10,9
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận:
Qua kinh nghiệm giảng dạy giúp học sinh học tốt biện pháp tu từ so sánh, bản thân tôi thấy rằng cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình thông qua đọc nhiều sách báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh...
Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau mỗi bài học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức.
Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài, xác định đúng yêu cầu của bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài.
Đối với giáo viên:
Cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy.
Thường xuyên tạo ra tình huống có vấn đề trong tiết học từ đó gây hứng thú học tập cho học sinh.
Tạo tâm thế thoải mái cho học sinh.
Sử dụng nhiều phương pháp trong một tiết học.
Quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động thực hành trong các tiết học.
Khuyến nghị:
Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Qua quá trình giảng dạy tôi đã vận dụng một số biện pháp như đã nêu ở trên để giúp học sinh học nắm vững biện pháp tu từ so sánh. Học sinh đã giảm được những lỗi mắc phải khi làm bài tập. Tuy nhiên đó cũng không phải là những biện pháp tối ưu nhất, tôi chỉ mạnh dạn nêu lên để đồng nghiệp cùng tham khảo, chia sẻ. Rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do tôi viết, không sao chép của người khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Tiếng Việt 3.
Sách giáo viên Tiếng Việc 3
Phương pháp dạy học Tiếng Việt
Vở luyện tập Tiếng Việt
Trò chơi học tập

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_phe.docx
  • pdfltvc3quynhthkhuongmai_811201815(1).pdf