Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn
Giáo dục Tiểu học là bậc học mà mọi quốc gia đều quan tâm. Bậc học này giúp học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và các kĩ thuật cơ bản để phát triển năng lực cá nhân; tính năng động, sáng tạo và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh có thể học lên lớp trên một cách tốt hơn.
Môn Tiếng Việt rèn cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản, giúp các em giao tiếp tốt trong cuộc sống. Dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, tri thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời thông qua bộ môn Tiếng Việt nhằm giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Để học sinh có được điều đó, trước hết phải giúp học sinh biết cách sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hoàn chỉnh. Đó là công việc giúp học sinh có được những câu văn đúng về nội dung và ngữ pháp. Đối với Tiếng Việt, câu chính là yếu tố đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá trình tư duy và giao tiếp
Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp. Mục tiêu của phân môn Tập làm văn là trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng làm văn, góp phần cùng môn học khác mở rộng vốn sống, tư duy lôgic, bồi dưỡng tâm hồn cảm xúc, thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho học sinh. Phân môn tập làm văn bên cạnh việc sử dụng các kĩ năng đã được các phân môn khác hình thành và phát triển (nghe, đọc, nói, viết, dùng từ, đặt câu .) còn hình thành và phát triển một hệ thống những kĩ năng riêng. Hệ thống những kĩ năng này phải gắn liền với quá trình sản sinh văn bản. Chính trình độ thành thục của những kĩ năng sản sinh văn bản góp phần quyết định chất lượng của bài văn viết.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn
u nghị-Hợp tác; Thiên nhiên; Bảo vệ môi trường; Hạnh phúc; Công dân; Trật tự-an ninh; Truyền thống; Nam và Nữ; Trẻ em; Quyền và bổn phận và các lớp từ: đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, nhiều nghĩa. Các bài tập dạy nghĩa từ Một số biện pháp giải nghĩa: Giải nghĩa bằng trực quan tức là đưa hình ảnh để giới thiệu từ. Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung bằng một định nghĩa. VD: “Truyền thống là lối sống, nếp nghĩ đã hình thành từ lâu đời và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau. Giải nghĩa bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Nghĩa của từ được bộc lộ nhờ ngữ cảnh. Ví dụ: “Phân biệt nghĩa của những từ đồng âm trong các cụm từ sau: cánh đồng / tượng đồng / một nghìn đồng” Giải nghĩa bằng cách so sánh đối chiếu với từ khác. “Ví dụ: Có thể thay từ công dân trong câu nói dưới đây bằng một từ đồng nghĩa với nó được không? Làm thân nô lệ mà muốn xóa bỏ kiếp nô lệ thì sẽ thành công dân, còn yên phận nô lệ thì mãi mãi là đầy tớ cho người ta” Các bài tập hệ thống hóa vốn từ Đưa ra bài tập liên tưởng theo một dấu hiệu ngữ nghĩa nào đó. VD: “Tìm những từ đồng nghĩa với từ công dân” Đưa ra các bài tập liên tưởng theo các lớp từ vựng. VD: “Tìm từ cùng nghĩa, tìm từ trái nghĩa”. Bài tập tìm các từ có cùng cấu tạo. VD: “ Tìm những danh từ và động từ có thể kết hợp được với từ an ninh” Các bài tập sử dụng từ Các bài tập này sẽ rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ bởi lẽ để làm được các bài tập này học sinh phải vận dụng các quan hệ ngôn ngữ, quan hệ liên tưởng để lựa chọn và kết hợp từ. Các bài tập sử dụng từ sẽ giúp học sinh nắm nghĩa và khả năng kết hợp của từ do đó hạn chế được dùng từ sai nghĩa, câu sai ngữ pháp, câu không lôgic về nghĩa Đây chính là những giờ học giúp học sinh hiểu nghĩa từ, củng cố, hệ thống hóa, mở rộng vốn từ cho học sinh. Từ là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất, có ý nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, được người nói, người viết dùng để đặt câu, hiểu từ và có vốn từ thì học sinh mới sử dụng được từ để đặt câu đúng, câu hay. Ví dụ: “Em hãy đặt câu ghép biểu thị quan hệ tăng tiến để giới thiệu về một bạn trong lớp em có nhiều phẩm chất tốt mà em khâm phục” hoặc “ Em hãy đặt câu với một trong các thành ngữ, tục ngữ sau đây: Bốn biển một nhà. Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn. Kề vai sát cánh” Hướng dẫn một số biện pháp nghệ thuật phù hợp với học sinh Tiểu học So sánh là đối chiếu hai sự vật, hiện tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đó với nhau, nhằm làm cho việc diễn đạt trở nên sinh động, gợi cảm. Ví dụ: Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại, rơi mà như nhảy nhót. Nhân hóa là biến sự vật thành con người bằng cách gán cho nó những đặc điểm mang tính cách người, làm cho nó trở nên sinh động, hấp dẫn. Ví dụ: Mặt đất đã kiệt sức bừng thức dậy , âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp trong lành. Đất trở lại dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây cỏ. Điệp ngữ là sự nhắc đi nhắc lại một từ ngữ, nhằm nhấn mạnh một ý nào đó, làm cho nó nổi bật và hấp dẫn người đọc Ví dụ: Làng quê tôi tràn ngập màu xanh của đồng lúa, màu xanh của bãi ngô, màu xanh của thảm cỏ . Đảo ngữ là sự thay đổi trật tự cấu tạo ngữ pháp thông thường của câu, nhằm nhấn mạnh và làm nổi bật ý cần diễn đạt Ví dụ: Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót. TN VN CN Sử dụng từ gợi tả là việc sử dụng các từ ghép phân loại, từ láy có tác dụng gợi hình ảnh, gợi cảm xúc để làm cho câu văn hấp dẫn hơn, sinh động, tạo ấn tương với người đọc, người nghe. Ví dụ: Mưa rồi! Mưa rồi! Mưa đổ ồ ồ trên phên nứa, rơi đồm độp xuống sân gạch, đập bùng bùng trên những tàu lá chuối. Việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật này mang lại những giá trị cao trong miêu tả. Nếu thiếu các từ gợi tả, các biện pháp nghệ thuật,câu văn miêu tả sẽ trở thành các câu kể khô khan, đơn điệu, nhàm chán, ít tính nghệ thuật. Trong quá trình dạy học, người giáo viên khuyến khích, động viên học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật, các từ gợi tả, gợi cảm. Khen ngợi những học sinh có những câu văn hay và có những biện pháp để học sinh khác được học tập, vận dụng, thực hành. 2.6 Phát huy năng lực của học sinh trong hoạt động sửa lỗi Trong các giờ Tập làm văn, hoạt động chữa lỗi là vô cùng quan trọng, đó chính là thời điểm để phát huy năng lực của học sinh, khả năng viết văn của học sinh một cách có hiệu quả. Sửa lỗi không chỉ giúp cho học sinh viết câu đúng mà tạo điều kiện để học sinh viết được những câu văn hay. a, Lỗi trong câu Đây là những lỗi như câu thiếu thành phần, diễn đạt dài dòng, rườm rà, câu không rõ nghĩa, câu chưa lôgic về nghĩa, câu văn thiếu từ gợi tả, thiếu hình ảnh Bước 1: Phát hiện lỗi sai Đưa ra câu văn, yêu cầu học sinh chỉ ra những lỗi sai trong câu bằng các câu hỏi gợi ý: Câu văn đủ các bộ phận chính chưa? Thiếu bộ phận nào? Chữa như thế nào để dược câu đúng? Câu văn đã rõ nghĩa chưa? Sửa thế nào cho câu văn rõ nghĩa, gọn hơn? Các câu văn này đã hay chưa? Vì sao chưa hay? Muốn câu văn hay hơn, cần phải làm gì? .Ví dụ: 1, Là một kỉ vật tuyệt vời của tôi. 2, Câu chuyện thú vị này. 3, Trong tất cả các câu chuyện về tình yêu thương mà em từng đọc. 4, Mặc dù đây chỉ là một câu chuyện ngắn nhưng chắc hẳn nó đã được trái tim của mọi người mở cửa. 5, Khu vườn nhà em rực rỡ sắc màu : hoa nhài thơm thoang thoảng, hoa lan thơm ngát, hoa hồng thơm nồng nàn. 6, Cơn mưa mang lại các giá trị khác nhau to lớn cho con người và vạn vật khác. 7, Tôi yêu hoa bằng lăng, hoa phượng và cả những tiếng ve. 8, Chiếc đồng hồ có ba kim. Anh kim giờ béo ục ịch. Chị kim phút thanh mảnh. Em kim giây bé tí ti. Câu 1: thiếu chủ ngữ Câu 2: thiếu vị ngữ Câu 3: thiếu chủ ngữ và vị ngữ Câu 4: diễn đạt chưa rõ nghĩa Câu 5: nội dung câu chưa logic về nghĩa Câu 6: diễn đạt dài dòng, rườm rà Các câu 7, 8 thiếu hình ảnh, thiếu các từ gợi tả gợi cảm, chưa sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Bước 2: Tổ chức sửa lỗi chung Sau khi phát hiện lỗi sai, học sinh suy nghĩ cách sửa và nêu ý kiến của mình. Những học sinh khác nhận xét, bổ sung và giáo viên là người tổng hợp các ý kiến đó, định hướng những cách sửa phù hợp, những câu văn phù hợp. Ví dụ có thể sửa: Câu 1, thêm chủ ngữ: Chiếc đồng hồ là một kỉ vật tuyệt vời của tôi. Câu 2, thêm vị ngữ: Câu chuyện thú vị này không chỉ trẻ em thích đọc mà người lớn cũng thích. Câu 3, thêm chủ ngữ, vị ngữ: Trong tất cả các câu chuyện về tình yêu thương mà em từng đọc, câu chuyện nào cũng để cho em những ấn tượng sâu sắc nhưng em thích nhất câu chuyện: “Tô mì của ba”. Câu 4, diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn: Mặc dù đây chỉ là một câu chuyện ngắn nhưng chắc hẳn nó đã mở cửa được trái tim của mọi người. Câu 5: Khu vườn nhà em rực rỡ sắc màu : hoa nhài thơm thoang thoảng, hoa lan thơm ngát, hoa hồng thơm nồng nàn. Nếu nói đến sắc màu thì không thể tả cụ thể mùi thơm ở trong câu này. Nếu nói đến mùi thơm thì không thể đưa ý khái quát là rực rỡ sắc màu được . Như vậy từ chỉ sắc màu và các từ chỉ mùi thơm không tương hợp với nhau. Câu này có hai cách sửa: + Nếu giữ lại từ sắc màu thì các từ tiếp theo cần sử dụng là: hoa lan trắng tinh, hoa huệ trắng ngà, hoa hồng đỏ thắm, hoa cúc vàng tươi Câu đúng là: Khu vườn nhà em rực rỡ sắc màu: hoa lan trắng tinh,hoa huệ trắng ngà, hoa hồng đỏ thắm, hoa cúc vàng tươi. + Nếu giữ lại các từ chỉ mùi thơm thì cần thay thế cụm từ rực rỡ sắc màu bằng cụm từ tràn ngập hương thơm. Câu đúng là: Khu vườn nhà em tràn ngập hương thơm: hoa huệ thơm thoang thoảng, hoa lan thơm ngát, hoa hồng thơm nồng nàn. Câu 6, diễn đạt lại cho rõ nghĩa: Cơn mưa mang lại giá trị to lớn cho con người và vạn vật. Nếu câu văn đúng ngữ pháp nhưng thiếu từ gợi tả, thiếu các biện pháp nghệ thuật thì câu văn đó chưa thể hấp dẫn thu hút người đọc. Nghệ thuật của văn chương chính là ở cách sử dụng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, hình ảnh, chi tiết. Muốn vậy người giáo viên cần giúp học sinh bước đầu làm quen với cách viết văn có nghệ thuật, đây là một cách nhằm phát huy năng lực của học sinh. Để sửa những loại lỗi này, người giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nghệ thuật đã học để việc diễn đạt trở nên hấp dẫn, sinh động. Câu 7 có thể sử dụng biện pháp điệp từ để nhấn mạnh tình yêu với những sự vật đặc trưng của mùa hè: “Tôi yêu hoa bằng lăng tim tím mỏng manh, yêu hoa phượng cháy đỏ rợp trời và yêu cả những tiếng ve râm ran mùa hạ. Tôi yêu mùa hạ!” Câu 8 có thể sử dụng biện pháp nhân hóa, kết hợp sử dụng từ gợi tả: “Đại gia đình nhà kim có ba anh em. Anh cả lớn tuổi nhất tên là Kim Giờ béo ục à ục ịch, di chuyển thật là nặng nề. Anh hai Kim Phút thanh mảnh, nhẹ nhàng. Anh hai đi được 60 bước thì anh cả mới đi được một bước. Nhanh nhất nhà là em Kim Giây, bé tí ti mà lại cao kều thoăn thoắt, thoăn thoắt, vun vút, vun vút lao đi không ngừng nghỉ.” Bước 3: Sửa lỗi riêng Cuối cùng cho học sinh đọc lại bài của mình, tự tìm những câu văn có lỗi sai tương tự như thế và sửa vào phần chữa lỗi riêng. Những câu nào khó, không tự sửa được, học sinh nêu trường hợp đó lên trước lớp để cả lớp cùng tham gia sửa giúp bạn b, Lỗi ngoài câu Đây là những lỗi như lặp cấu trúc câu, liên kết câu rời rạc Bước 1: Phát hiện lỗi trong câu văn, đoạn văn Đưa ra đoạn văn, yêu cầu học sinh chỉ ra những lỗi sai trong đoạn bằng các câu hỏi gợi ý: Những câu văn này được đặt trong một đoạn có phù hợp không? Tại sao chưa phù hợp? Sửa như thế nào? Có nhận xét gì về kiểu câu trong đoạn văn của bạn? Ví dụ: Câu 1: Liên kết câu rời rạc Đôi mắt cô tròn, đen láy. Khuôn mặt cô hình trái xoan. Tính tình cô vui vẻ, hay cười. Ở trên lớp, cô luôn giảng bài cho các bạn tận tình. Câu 2: Lặp cấu trúc câu kiểu: Rễ của cây / to, ngoằn ngoèo, nổi hẳn lên mặt đất. Vỏ của cây / cứng, sần sùi. Cành của nó / thì dài, khẳng khiu. Bước 2: Hướng dẫn sửa lỗi chung Ở hoạt động sửa lỗi ngoài câu này khó hơn lỗi trong câu, do đó nên cho học sinh thảo luận nhóm để học sinh có thể tìm ra cách sửa. Các nhóm báo cáo kết quả. Giáo viên là người tổng kết các ý kiến và cùng với học sinh chỉ ra cách sửa phù hợp đem lại hiệu quả cho câu văn miêu tả. Ví dụ: Câu 1: Liên kết câu rời rạc Đôi mắt cô tròn, đen láy. Khuôn mặt cô hình trái xoan. Tính tình cô vui vẻ, hay cười. Ở trên lớp, cô luôn giảng bài cho các bạn tận tình. Đoạn văn này bị lẫn lộn cả hai nội dung miêu tả, vừa ngoại hình lại vừa tả tính tình nhưng không có chuyển ý nên sự liên kết bị rời rạc. Muốn vậy cần tách làm hai đoạn, và có câu mở đoạn để chuyển ý nối kết các đoạn với nhau. Đoạn Đoạn 1 Đôi mắt tròn, đen lay láy nổi bật trên khuôn mặt trái xoan thật là ưa nhìn. Đoạn 2 (Câu mở đoạn là câu in đậm): Cô không chỉ có ngoại hình đẹp mà tính tình cô còn thật dễ gần, vui vẻ và chu đáo. Cô rất hay cười với chúng em. Các giờ học trở nên nhẹ nhàng bởi cô hay xen kẽ các tình huống hài hước, các trò chơi học tập.. Câu 2: Lặp cấu trúc câu kiểu: Rễ của cây / to, ngoằn ngoèo, nổi hẳn lên mặt đất. Vỏ của cây / cứng, sần sùi. Cành của nó / thì dài, khẳng khiu. Cả đoạn văn miêu tả mà chỉ có duy nhất một kiểu câu thì sẽ khiến người đọc nhàm chán, câu văn đơn điệu. Để sửa được lỗi này, cần phối hợp các kiểu câu khác nhau. Có thể sửa như sau: “Cây nhiều tuổi lắm nên bộ rễ to, ngoằn ngoèo trồi hẳn lên mặt đất. Thân cây khoác chiếc áo bạc phếch tháng năm, sờ tay chẳng thấy mượt nữa mà sần sùi, ram ráp, có những cái mắt to như cái bát ăn cơm, lõm sâu, gồ ghề. Cành của nó khẳng khiu, vươn dài, chạm tới trời xanh.” Bước 3: Hướng dẫn sửa lỗi riêng Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại bài của mình, tự tìm những đoạn văn có lỗi sai tương tự như thế và sửa vào phần chữa lỗi riêng. Những câu nào khó, không tự sửa được, học sinh nêu trường hợp đó lên trước lớp để cả lớp cùng tham gia sửa giúp bạn. Bước 4: Học tập câu văn, đoạn văn hay. Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh phát hiện cái hay trong câu văn, đoạn văn thậm chí là bài văn của bạn. Giáo viên đưa các câu văn, đoạn hoặc cả bài văn hay để học sinh học tập bằng các câu hỏi gợi mở như: Câu văn của bạn đã sử dụng từ gợi tả nào? Khi diễn đạt, bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Con học tập được gì trong cách miêu tả của bạn? Con thấy đoạn văn của bạn hay ở chỗ nào?..... Sau khi học sinh phát hiện ra những cái hay trong câu, đoạn, bài văn của bạn thì người giáo viên tổng hợp các ý kiến của học sinh, từ đó khái quát lại những gì học sinh cần học tập về từ ngữ, về biện pháp nghệ thuật, về phối hợp các kiểu câu, các kiểu liên kết . Cho học sinh đọc lại bài của mình và yêu cầu chọn một câu hoặc một đoạn ngắn để diễn đạt lại cho hay hơn. Học sinh trình bày câu hoặc đoạn của mình vừa viết lại, giáo viên tổ chức cho học sinh trong lớp nhận xét trên tinh thần động viên sự cố gắng và tiến bộ của bạn. Giáo viên trân trọng sự sáng tạo của của học sinh nhưng cũng phân tích, so sánh để học sinh hiểu được từ nào là phù hợp hoặc biện pháp nghệ thuật nào là đạt hiệu quả nhất. Ví dụ giáo viên đưa câu văn: “Hoa phượng nở đỏ rừng rực một góc trời, trông xa như một mâm xôi gấc khổng lồ.”, yêu cầu học sinh phát hiện cái hay trong cách diễn đạt câu văn của bạn. Sau đó giáo viên chốt lại dựa trên sự tổng hợp các ý kiến của học sinh. Câu văn này hay vì đã sử dụng từ gợi tả (đỏ rừng rực), sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh và hình ảnh phù hợp (như một mâm xôi gấc khổng lồ). Cho học sinh trao đổi nhóm để tìm các từ khác thay thế cho từ gợi tả (nếu có) trong câu của bạn hoặc tìm các biện pháp nghệ thuật khác có thể sử dụng để miêu tả đối tượng mà câu của bạn nói đến. Có những học sinh tìm được từ khác (đỏ chót, đỏ chói, đỏ rực rỡ), có học sinh lại tìm được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật khác rất hay (Hè đến, phượng thay chiếc áo xanh bằng chiếc áo màu đỏ chót, trông xa như một đám lửa khổng lồ.) hoặc câu rất gợi tả, gợi cảm (Cứ vào hè là cả sân trường được đốt sáng rực bởi cả trời lửa phượng bập bùng.) 3. Kết quả Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong suốt năm học vừa qua nhằm giúp học sinh diễn đạt câu đúng và hay trong phân môn Tập làm văn . Việc sử dụng các biện pháp này một cách liên tục và khoa học đã mang đến những kết quả rất tốt. Học sinh thêm yêu thích môn Tập làm văn, có ý thức viết đúng chính tả và biết cân nhắc trước khi viết để sử dụng từ cho hay, cho chính xác, viết câu cho rõ nghĩa, đủ thành phần nhằm đạt được hiệu quả tối đa trong việc diễn đạt ý và có những học sinh bước dầu biết cách sử dụng từ, sử dụng các biện pháp nhân hóa so sánh, điệp ngữ một cách có nghệ thuật. Ví dụ: Trong bài : “Tả cây cối” có học sinh đã viết được những đoạn văn rất hay. “Có cả xoài chín, xoài xanh, xoài ương. Chúng treo lơ lửng đầu gió.Gió quyện hương xoài thoang thoảng khắp vườn và ào vào trong nhà. Mùi quả chín thơm thơm như báo cho mọi người biết : mùa xoài đã về rồi đây ! Mấy quả xoài chín mọng, vàng tươi nấp sau kẽ lá như đang chơi trốn tìm với ông mặt trời . Trông chúng giống y hệt những bóng đèn thắp sáng rực cả một góc vườn. Xoài xanh thì thật khó nhận biết khi màu quả và màu lá cứ trộn lẫn vào nhau . Có những quả xoài xanh nhút nhát , e ấp mãi bên dưới tán lá như chẳng muốn rời xa mẹ. Nhưng xoài ương bao giờ cũng là quả xoài đặc biệt nhất . Nó cứng cáp hơn xoài chín, đẹp hơn xoài xanh, hương vị ương ương ăn rất ngon và độc đáo. Vị ngọt hòa lẫn chất chua tạo ra thứ gì đó rất đa dạng và độc đáo”. (Bùi Nhật Linh) Ví dụ : Trong bài “Tả cảnh đẹp sông nước” có học sinh viết: Một buổi sáng mùa hè đầy nắng và gió, tôi theo bố lên cầu Long Biên đứng ngắm sông Hồng – con sông đã gắn bó tha thiết với thủ đô Hà Nội từ bao đời nay. Mùa này, sông ăm ắp nước. Lòng sông rộng mênh mang, nước sông đỏ nặng phù sa, vun đắp cho đôi bờ. Nhìn từ trên cao, dòng sông như một dải lụa đào mềm mại vắt hờ hững qua thành phố. Ngắm dòng sông long lanh dưới nắng vàng, tôi tự hỏi sông đã bao nhiêu tuổi mà vẫn còn đó nét dịu dàng thướt tha đến thế? Giờ này mặt trời đã lên khá cao, bầu trời buổi sáng trong xanh, cao vút. Những đám mây trắng xốp đang lững lờ trôi về cuối chân trời.Gió thổi lồng lộng, mang theo hơi thở của dòng sông, tiếng rì rào của những con sóng nhỏ vỗ chân cầu và mang theo cả tiếng khua nước ì oạp của những chiếc thuyền đi đánh cá . ( Nguyễn Hà An ) Ví dụ: Trong bài “Tả cơn mưa” có học sinh viết được những câu văn rất gợi tả: Mưa bỗng nhiên sầm sập đổ xuống.Lúc đầu chỉ là một vài giọt nhỏ, sau đó là cả làn mưa trắng xóa bao phủ mọi vật. Mưa trút xuống con đường làng lầy lội nay còn lầy lội hơn. Từng bãi bọt trắng xóa nối tiếp nhau trải dài. Thần Sét phóng mũi lao trắng chia cắt bầu trời đen tối. Mưa rớt xuống bụi cây héo vàng như làm chúng bừng tỉnh sau đợt nắng hạn. Cây chuối vặn vẹo cố gắng xoay chuyển những tàu lá to bè. Cây bưởi vẫy vẫy từng chiếc lá nhỏ như đón chào mưa. Những cây rau ngổ, rau húng quế cũng hào hứng không kém. Trong mưa, những chú ếch bụng trương phềnh kêu ộp oạpộp oạp hòa lẫn tiếng lộp độp, lộp độp.Thần Sầm la lên những tiếng đinh tai làm ai cũng phải giật mình. Những giọt nắng đầu tiên đã hé lộ sau đám mây trắng sau mưa. Cầu vồng đã bắc qua ngôi làng bé nhỏ trông thật lộng lẫy. Từng cây rau muống mập mạp nở ra đón lấy làn nắng xing xinh tinh khôi.. (Đỗ Thu Phương) Số lượng học sinh viết câu không rõ nghĩa, thiếu thành phần giảm rất nhiều.. Những học sinh còn bị viết câu sai đều là những học sinh khả năng về tiếng Việt chưa tốt, khả năng diễn đạt còn lúng túng, vốn từ còn nghèo nàn. Nhiều học sinh đã biết sử dụng các từ gợi tả, gợi cảm, các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả. So với đầu năm đây là một kết quả rất khả quan. Loại lỗi sai Đầu năm Cuối năm 1. Lỗi trong câu 55% tổng số học sinh 15% tổng số học sinh 2. Lỗi ngoài câu 45% tổng số học sinh 7% tổng số học sinh Khi giáo viên đưa ra các lỗi sai, học sinh phát hiện rất nhanh có nhiều cách sửa sáng tạo phát huy được năng lực của học sinh mà vẫn không làm thay đổi nội dung, ý tứ của người viết. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. Kết luận Việc viết câu đúng, diễn đạt trọn vẹn một ý có một vai trò vô cùng quan trọng trong phân môn Tập làm văn vì nó giúp người đọc hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn. Khả năng viết được câu văn đúng, diễn đạt trọn vẹn nội dung thông báo đúng cấu tạo ngữ pháp tiến tới viết được câu văn hay là cả một quá trình lâu dài và đồng bộ. Do đó người giáo viên cần phải thực hiện tốt và đồng bộ tất các các khâu, các bước. Những biện pháp trên rất dễ thực hiện và đạt được hiệu quả cao trong quá trình dạy môn Tập làm văn và hỗ trợ rất nhiều cho các môn học khác như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện Đẩy mạnh, tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh nói chung và hoạt động sử dụng từ đặt câu, viết đoạn, sửa lỗi câu, lỗi đoạn trong phân môn Tập làm văn nói riêng. Học sinh đã hào hứng trong các giờ trả bài của phân môn Tập làm văn và không còn ngại hoạt động sửa lỗi câu. Khả năng sử dụng từ của giáo viên linh hoạt hơn và nâng cao hơn. Vốn từ của học sinh được mở rộng hơn rất nhiều, khả năng sử dụng từ đã thành thạo hơn và tích cực hơn, có ý thức trong diễn đạt. Khuyến nghị Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, để đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần nắm vững đặc điểm tâm lí của học sinh. Giáo viên cần chấm bài thật kĩ để phát hiện lỗi sai của học sinh Trong quá trình chữa lỗi câu cho học sinh người giáo viên cần: Lựa chọn những lỗi sai điển hình trong bài viết của học sinh. Có những câu hỏi gợi mở phù hợp giúp học sinh tự tìm ra được nguyên nhân sai và tự sửa lỗi. Câu văn sửa cho học sinh cần chính xác, khoa học, gắn với thực tế để học sinh dễ hiểu. Luôn kết hợp chặt chẽ với tất cả các môn học khác . Người giáo viên phải tự học không ngừng để nâng cao khả năng sử dụng từ, làm phong phú vốn từ để xử lí các tình huống của học sinh về câu được linh hoạt và chính xác có hiệu quả. Trong quá trình đánh giá và sửa lỗi, người giáo viên cần trân trọng sự sáng tạo của học sinh, không rập khuôn máy móc vì thực chất văn học là nghệ thuật, mà nghệ thuật thì chỉ được gọi là nghệ thuật khi có sự sáng tạo và riêng biệt. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Người viết
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_dien.docx
- taplamvan5hienthkhuongmai_811201815(1).pdf