Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 thông qua các hoạt động trong trường mầm non
Bác Hồ của chúng ta đã từng nói :
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây, Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Sở dĩ Bác nói như vậy là để khẳng định với chúng ta rằng việc giáo dục trẻ để trẻ trở thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Như chúng ta đã biết phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá.
Ông bà ta xưa có câu: “ Trẻ lên 3 cả nhà học nói”. Thật đúng như thế dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ 3 tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trẻ, bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mà còn là phương tiện để trẻ biểu hiện nhận thức của mình. Nhờ có ngôn ngữ, trẻ đã nhận thức được về môi trường xung quanh, đồng thời trẻ cũng sử dụng ngôn ngữ để kể lại, miêu tả lại sự vật hiện tượng. Không chỉ vậy ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh. Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống xung quanh, trẻ sẽ có nhiều ấn tượng đẹp và tâm hồn trẻ càng thêm phong phú.
Đối với trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi đặc điểm ngôn ngữ của trẻ rất rõ ràng. Trẻ học từ mới rất nhanh, vốn từ của trẻ phong phú, gồm nhiều loại từ. Tuy nhiên ta thấy trẻ nhỏ thường phát âm không chính xác chẳng hạn như : lá – ná , cường – cườn , nhớ - nớ, Việc trẻ phát âm không đúng của trẻ chủ yếu là do cơ quan phát âm của trẻ chưa linh hoạt, chưa nhạy cảm và chưa chính xác, trẻ chưa biết cách điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ và giọng nói cho phù hợp với nội dung nói. Vì vậy, để trẻ phát âm đúng cần phải được luyện tập thường xuyên, mọi lúc mọi nơi và thời gian lâu dài .
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 thông qua các hoạt động trong trường mầm non
+ Ếch con đi học khi thời tiết như thế nào?( Trời mưa ạ) + Đến lớp ếch con được làm gì? ( Được nghe cô giáo giảng bài ) + Ếch con học bài vào lúc nào?( Ếch học bài vào ban đêm ạ) + Qua câu truyện con thấy bạn ếch là người như thế nào?( Chăm chỉ ạ) - Cô đọc 2-3 lần cho trẻ nghe để giúp trẻ hiểu thêm về bài thơ và giáo dục trẻ phải chăm chỉ học bài VD2: Trong câu truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ hay nói ô tô - Ô chô. + Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan + Bác Gấu - Bác ấu + Con Cáo - Con áo - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. - Thể hiện sắc thái , ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời. - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần , niềm nở. - Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói để tiếp thu kiến thức. Minh họa hình 5 * Giờ HĐ âm nhạc: - Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ. - Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật: ( Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. - Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. VD: Hát và vận động bài “ Đố bạn” + Câu đầu tiên: Trèo cây nhanh thoăn thoắt đố bạn biết con gì? (Trẻ đưa tay ra phía trước giả vờ trèo cây) + Câu thứ hai : Đầu đội 2 cái lá đó là chú voi con.( Trẻ đưa 2 tay lên đầu) + Câu thứ ba: Hai tai to phành phạch đó là chú voi con ( Trẻ giơ 2 tay giả vờ làm tai voi) + Câu cuối: Trông xem kìa, trông xem kìa ai đi như thế kia. Phục phịch, phục phịch đó là bác gấu đen ( Trẻ dậm mạnh chân xuống sàn) 3.5. Biện pháp 5: Một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Đối với trẻ , được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng” số vốn từ ”đó một cách thành thạo. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái - Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. Trò chơi 1: “ Cái gì? Dùng để làm gì? Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển : Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống ( Bát , thìa, cốc , ca) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau. Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì? - Cô nói: + Cái bát dùng để làm gì? ( Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước) + Cái mũ để làm gì? ( Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? ( Cái áo để mặc) - Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng. Trò chơi 2: “ Trò chuyện về các PTGT quen thuộc ”. Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen thuộc như : ô tô, xe đạp , xe máy, tàu hoả. Chuẩn bị: + Mô hình các PTGT: ô tô , xe máy, xe đạp. + Tranh, ảnh các loại PTGT. + Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán Tiến hành: Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi. Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiềutôi có thể đàm thoại với trẻ về các loại PTGT mà trẻ biết như : + Hôm nay, ai đưa con đến trường? + Mẹ con đưa đến trường bằng PT gì? + Cô nào đón con vào lớp? + Hôm qua chủ nhật bố mẹ có cho con đi đâu không? + Con đi với ai? + Con đi bằng phương tiện gì? + Khi đi đường con nhìn thấy gì ? + Bạn nào đã được đi ô tô rồi ? + Ô tô kêu như thế nào ? + Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo an toàn giao thông? Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại PTGT khác mà trẻ biết. Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình PTGT và cho trẻ nghe âm thanh của PTGT yêu cầu trẻ đoán đó là PTGT nào. Một số trò chơi dân gian phát triển ngôn ngữ cho trẻ. RỒNG RẮN Rồng rắn đi chơi Vừa hát vừa cười Đến thăm thầy thuốc Đếm chân mà bước Thong thả mà đi Tay chống chân quỳ Hỏi cho thật lớn : Thầy thuốc có nhà không ? BỊT MẮT BẮT DÊ Một bầy trẻ nhỏ Bịt mắt bắt dê Dê vấp bờ hè Ngã kềnh bốn vó Mọi người cười rộ Cố đuổi vòng quanh Dê chạy thật nhanh Túm ngay một chú . 3.6. Biện pháp 6: Phối hợp với các bậc phụ huynh phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong việc dạy trẻ ngôn ngữ thì không chi đơn thuần giáo viên lập kế hoạch thực hiện trên lớp mà còn cần phối hợp với các bậc phụ huynh để giúp cho việc giáo dục đạt hiệu quả tối ưu nhất. nhiều phụ huynh khi gửi con tới trường thì nghĩ răng việc giáo dục là hoàn toàn của các cô giáo nhưng điều đó không đúng . Rõ ràng cha mẹ là những người thầy đầu tiên của con cái vì thế trách nhiệm giáo dục con cái cũng là ở bố mẹ trẻ. Vì vậy giáo viên cần có biện pháp tuyên truyền đúng đắn, phù hợp để có thể giúp phụ huynh hiểu điều đó và cùng phối hợp với giáo viên. Hiểu được điều đó , ngay từ đầu năm tôi đã có biện pháp giúp phụ huynh hiểu cần chung tay với các cô để cùng giáo dục các con của mình theo con đường đúng đắn. Muốn vậy, phụ huynh cũng cần phải hiểu tầm quan trọng của ngôn ngữ? Làm gì để phát triển ngôn ngữ cho con em mình?... Tôi đã xây dựng góc tuyên truyền và đưa vào đó các nội dung không chỉ thông báo tình hình sức khỏe, dinh dưỡng mà còn đưa vào các thông tin cha mẹ cần biết, các chỉ số ở độ tuổi này trẻ cần phát huy tư duy, tình cảm, nhân cách, quan hệ xã hội để phụ huynh nắm bắt được. Sau khi đưa ra các nội dung như vậy, phụ huynh hiểu rõ được thì việc phối hợp cùng cô giáo sẽ dễ dàng hơn. Tôi đặc biệt chú ý hai thời điểm là đón trả trẻ vì đây là khoảng thời gian cô giáo và phụ huynh có thể trao đổi những thông tin về trẻ dễ nhất, điều này làm cho việc giáo viên nắm bắt tâm sinh lý, đặc điểm tính cách cá nhân của trẻ rõ nhất. ở nhà, người lớn hãy là một tấm gương để trẻ noi theo, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ. Cha mẹ hãy luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trừơng sau này. Một việc nữa là cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó. Ví dụ :Trên lớp có những hoạt động trẻ tham gia và đã tạo thành sản phẩm thì chiều ngày hôm đó khi phụ huynh tới đón con tôi sẽ cho trẻ giới thiệu về sản phẩm mà mình đã tạo ra cho bố mẹ mình biết. Điều này không những động viên khích lệ trẻ mà còn tạo thêm niềm tin ở phụ huynh với các giáo viên của con mình. Đó chính là những điều mà cha mẹ cũng như cô giáo hãy cùng chung tay để thực hiện dạy trẻ mọi lúc mọi nơi. Bản thân tôi cũng cảm thấy rất vui vì mình đã nhận lại được rất hiều sự ủng hộ và đóng góp từ các bậc phụ huynh. Đơn giản chỉ là những việc các bố các mẹ mang những bộ màu nước, mang những tờ bìa cát tông, hay tượng các con giống, các vỏ chai, lọđể cô và các con cùng tự tay làm ra những con vật, những phương tiện giao thông, những bông hoa. .. phục vụ hoạt động góc, hoạt động học tập của các con. Các bậc phụ huynh cũng rất nhiệt tình và quan tâm tới các cô, mối khi thấy các cô bận rộn việc gì là các mẹ đều hỏi thăm, động viên tinh thần và giúp đỡ rất chu đáo. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng nó góp phần thắt chặt sợi dây tình cảm giữa phụ huynh và nhà trường. Để phụ huynh thêm tin tưởng và yên tâm gửi con đến lớp. Tôi còn mời các bậc phụ huynh của lớp đến tham dự các hoạt động của trẻ ở lớp. Để phụ huynh thấy được ở lớp trẻ có thể làm được những công việc gì và thấy được sự vất vả của các cô khi tổ chức các hoạt động cho trẻ. Qua đó các bậc phụ huynh hiểu hơn về công tác chăm sóc giáo dục trẻ và phối hợp với các cô giáo để việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt nhất. Kết quả: Một số phụ huynh trước đây có sự giáo dục chưa đúng đắn, chưa khoa học nay đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệt tình phối hợp và rất yên tâm khi đưa con đến lớp. Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và cùng phối kết hợp với giáo viên để cùng giáo dục cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình. Với những kết quả khả quan như vậy tôi thấy mình cần phải phát huy hơn nữa, nghiên cứu tài liệu và tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục giáo dục và phát triển ngôn ngữ cho trẻ để làm tốt nhiệm vụ của mình. Qua đó giúp trẻ trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm Sau một thời gian áp dụng và thực hiện các biện pháp trên vào quá trình giáo dục và rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi ở lớp. Tôi đã thu được kết quả cụ thể sau: 4.1. Bảng thống kê kết quả khảo sát trẻ sau khi thực hiện các biện pháp TT Tên tiêu chí Tổng số trẻ Trước khi áp dụng Sau khi áp dụng Số trẻ đạt Tỉ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỉ lệ % Số trẻ đạt Tỉ lệ% Số trẻ chưa đạt Tỉ lệ% 1 Phát âm rõ ràng mạch lạc 30 14 47 16 53 29 97 2 3 2 Phát âm câu phức 30 8 27 22 73 28 93 2 7 3 Hứng thú tham gia đọc và thuộc 30 8 27 22 73 28 93 2 7 4 Thể hiện bài đồng dao ,thơ bài hát. 30 7 23 23 77 28 93 2 7 5 Trẻ nói ngọng, nói lắp 30 6 20 24 80 28 93 2 7 6 Trẻ nói câu chưa rõ nội dung 30 10 33 20 67 29 97 1 3 7 Trẻ mạnh dạn tự tin khi nói 30 9 30 21 70 29 97 1 3 4.2. Về phía trẻ: Nhìn vào bảng khảo sát trên cho thấy sau khi áp dụng sáng kiến kết quả đạt được trên trẻ tăng lên rõ rệt: - Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc tăng: 50% - Trẻ phát âm câu phức tăng : 66% - Trẻ hứng thú tham gia đọc và thuộc tăng: 66% - Trẻ thể hiện bài đồng dao ,thơ bài hát tăng: 70% - Trẻ nói ngọng, nói lắp tăng: 73% - Trẻ nói câu chưa rõ nội dung tăng: 64% - Trẻ mạnh dạn tự tin khi nói tăng: 67% 4.3. Về phía giáo viên: - Giáo viên hiểu hơn về tâm lý của trẻ theo từng độ tuổi, từ đó sử dụng các biện pháp thích hợp nhất để rèn luyện ngôn ngữ cho từng cá nhân trẻ. - Khi dạy trẻ ngôn ngữ, giáo viên có điều kiện trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không quát mắng trẻ, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. - Trong giảng dạy, giáo viên chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh,, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ. - Có nhiều kinh nghiệm hơn trong công tác giảng dạy cũng như trong công tác nuôi dưỡng. Giáo viên biết mình cần làm gì để tốt nhất cho trẻ. Vì vậy các đợt thanh tra, kiểm tra đột xuất của trường cũng như của phòng giáo dục lớp tôi luôn được xếp loại tốt. 4.4. Về phía phụ huynh: - Phụ huynh cảm thấy tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trích cô giáo ngược lại luôn thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp nguyên vật liệu giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi,luôn hưởng ứng các phong trào của lớp tổ chức. Phụ huynh thấy yên tâm khi gửi con mình cho nhà trường, cho cô giáo. - Phụ huynh luôn coi trọng trẻ, có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ ngôn ngữ, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức. Phụ huynh hiểu được vấn đề nên giáo dục cho trẻ những ngôn ngữ tốt nhất ngay khi trẻ còn bé. Số lượng phụ huynh tham gia dự họp đông hơn so với những năm trước. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận : Việc dạy trẻ phát triển ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, trẻ thích nghi nhanh hay chậm hình thành những ngôn ngữ sơ đẳng trong học tập và trong sinh hoạt hàng ngày phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc dạy trẻ của chúng ta. Thực tế, phát triển ngôn ngữ của trẻ 3- 4 tuổi chỉ đơn giản là các hoạt động cho trẻ trải nghiệm trong chính hoạt động hằng ngày tại trường mầm non .Để giúp trẻ hình thành phát triển ngôn ngữ chúng ta cần tìm hiểu thật kỹ đặc điểm tâm lý của trẻ theo từng độ tuổi để từ đó giúp trẻ có ngôn ngữ thật tốt. Để dạy trẻ phát triển ngôn ngữ, chính người lớn chúng ta hãy chứng tỏ mình là người sống có ngôn ngữ và hình thành ngôn ngữ cho trẻ thông qua mọi hoạt động bắt đầu từ việc nhỏ nhất, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ và tạo dần cho trẻ các thói quen tốt. Đó chính là những lợi ích về lâu dài để các bậc phụ huynh ngày nay quan tâm nhiều hơn đến việc rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho con ngay từ tuổi mầm non. Giáo dục, rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi nói riêng cũng như trẻ lứa tuổi mầm non nói chung chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Người lớn hãy luôn khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động, tự tin vào bản thân đồng thời khuyến khích trẻ khi tham gia vào các hoạt động luôn chủ động tìm tòi, khám phá để tìm ra cách giải quyết. Đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này. Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành vi, lời nói tốt của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần nhẹ nhàng, khéo léo khi rèn luyện các công việc tự phục cho trẻ, không nên hạ thấp khả năng của trẻ, không doạ nạt hay bắt trẻ phải làm những việc quá sức của trẻ. Người lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, mà nên cho trẻ tự làm những công việc vừa sức của mình. Người lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ thực hiện và hiểu ý nghĩa của những công việc hành động mà trẻ làm. Song công việc thật không đơn giản. Trình độ nhận thức tiếp thu của mỗi cháu khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi cháu không đồng đều vì vậy qua quá trình thực hiện tôi nhận thấy muốn thực hiện tốt việc này, không chỉ bản thân mỗi giáo viên nỗ lực mà còn cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ phía các cấp lãnh đạo, nhà trường và đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh mới có thể đem lại kết quả cao trong việc hình thành phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2. Bài học kinh nghiệm: Sau một năm học áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé, bản thân tôi đã đã rút ra một số kinh ngiệm như sau: - Người lớn luôn là tấm gương sáng mẫu mực cho trẻ noi theo, luôn yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. - Cô giáo cần trau dồi kiến thức về phát triển ngôn ngữ cần thiết để dạy trẻ. Giáo viên cần nắm bắt được đặc diểm tâm sinh lí, năng lực của trẻ, cần linh hoạt sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng, sửa lại kịp thời cho trẻ nhằm kích thích những việc làm tốt, và hạn chế những hành vi xấu của trẻ. Cô giáo phải hết lòng yêu thương các cháu, với tinh thần là người mẹ thứ hai của các cháu, cô giáo phải nhạy bén trước những diễn biến của các cháu, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các cháu, hiểu được hoàn cảnh sống của từng gia đình. - Cô giáo phải luôn tìm tòi học hỏi, luôn có biện pháp sáng tạo mới trong giảng dạy và chăm sóc giáo dục trẻ. Không ngừng học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để phát huy những mặt tốt, rút kinh nghiệm những việc chưa làm được. - Bên cạnh đó, cần phải có sự phối – kết hợp giữa giáo viên cùng lớp và sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu thì việc dạy trẻ sẽ đạt kết quả cao hơn. Cần phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhất là rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Để đạt được điều đó, đòi hỏi phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động tới toàn thể các bậc phụ huynh để họ nhận thức đúng đắn về việc dạy trẻ phát triển ngôn ngữ quan trọng như thế nào? Từ đó giúp họ thấy rõ vai trò và trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ. Muốn giáo dục chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống nhất phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. - Gia đình phải thật sự là mái ấm tình thương của trẻ, bố mẹ phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo, phải quan tâm, yêu thương trẻ, có trách nhiệm giáo dục trẻ ngay từ khi mới chào đời. 3. Kiến nghị: Để giáo dục và rèn luyện giúp trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi có khả năng phát triển ngôn ngữ, tôi rất mong : 3.1. Với phòng giáo dục: - Tổ chức các buổi học tập, phát huy kết quả sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp thành phố về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ để giáo viên học tập, trao đổi. - Mở các lớp bồi dưỡng cho giáo viên kiến thức dạy trẻ kỹ năng giao tiếp phát triển ngôn ngữ, một cách bài bản, chuyên sâu. 3.2. Với trường mầm non: - Thường xuyên tổ chức kiến tập cấp trường các hoạt động chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ để mọi giáo viên có điều kiện học tập nâng cao kiến thức, kĩ năng dạy trẻ . - Trang bị thêm cho giáo viên các loại tài liệu bồi dưỡng kiến thức giáo dục và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 3.3. Với giáo viên: - Tích cực tham khảo các tài liệu sách báo, học hỏi kinh nghiệm của bạn bè đồng nghiệp để bổ sung kiến thức, nâng cao hiệu quả lồng ghép tích hợp phát triển ngôn ngữ trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày. - Luôn tìm tòi, sáng tạo, vận dụng linh hoạt các cơ hội trong các hoạt động học tập và sinh hoạt hàng ngày trên lớp để rèn trẻ các kỹ năng sơ đẳng cần thiết phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ. Với kết quả đạt được của bản thân tôi cũng như của lớp C2 được thể hiện ở sáng kiến cho thấy nếu biết phối hợp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói chung, cho trẻ 3-4 tuổi nói riêng sẽ đạt được kết quả cao. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình áp dụng vào việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé và cũng có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế của lớp học để áp dụng vào việc dạy trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới. Tôi xin chân thành cảm ơn! * Một số hình ảnh minh chứng: Hình 1: Tư liệu tham khảo Hình 2: Môi trường lớp học Hình 3: Giờ đón trả trẻ Hình 4: Giờ hoạt động góc Hình 5: Giờ làm quen văn học
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_t.doc