Báo cáo biện pháp Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn

Dạy học là một hoạt động đặc thù, được tiến hành theo một phương pháp đặc thù, đó là nhà trường. Thông qua hoạt động đặc thù này mà người học có thể tiếp thu được những tri thức khoa học và phát triển trí tuệ, phát triển nhân cách của mình.

Qua các thời đại, các giai đoạn phát triển của giáo dục, học sinh Tiểu học của ta vẫn là những trẻ em từ 6 đến 11 tuổi nhưng có sự khác biệt về sự phát triển thể lực và tâm lí, nghĩa là trẻ em ở mỗi thời mỗi khác, học sinh tiểu học ở mỗi thời mỗi khác. Dù sao trẻ em vẫn là trẻ em, trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học của chúng ta hiện nay có những đặc điểm mà mỗi giáo viên, mỗi người làm công tác giáo dục cần hiểu và tôn trọng thì mới có thể làm tốt công việc của mình. Mỗi học sinh tiểu học là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên. Trong mỗi học sinh tiểu học tiềm tàng khả năng phát triển. Mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành. Trong quan niệm của Hồ Chủ Tịch: mục đích của nhà trường mới, nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “Hồng” vừa “Chuyên” vì vậy việc giáo dục trong nhà trường, theo Người cần phải đảm bảo phát triển toàn diện nhân cách học sinh.

 Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc và học viết. Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em. Ngay từ những ngày đầu đến trường các em đã làm quen với số và toán.

Trong cuộc sống hiện tại ở đâu cũng gặp toán học. Toán học xảy ra hiện thực hoặc tiềm ẩn dưới mọi hình thức, đều xâm nhập vào cuộc sống con người. Với trẻ em, toán học đóng một vị trí rất quan trọng vì nó hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của kiến thức và nhân cách con người Việt Nam.

Bậc học tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách ở học sinh, là bước ngoặt trong đời sống của trẻ. Đó là cánh cửa mở đầu cho cả quá trình lĩnh hội tri thức của trẻ em. Ở bậc học này, các em được học nhiều môn học trong đó môn toán chiếm một vị trí quan trọng giữ vai trò then chốt giúp các em chiếm lĩnh kiến thức, là công cụ giúp các em học tập và giao tiếp.

 

docx 26 trang Khương Huỳnh 21/08/2023 3300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn

Báo cáo biện pháp Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
g số phần bằng nhau là:
1 + 3 = 4 (phần)
Số bạn gái trong đội tuyển là:
12 : 4 = 3 (bạn)
Số bạn trai trong đội tuyển là:
3 x 3 = 9 (bạn)
Hoặc 12 – 3 = 9 (bạn)
	Đáp số: Trai: 9 bạn
	 Gái: 3 bạn 
Từ bài toán cơ bản trên ta xây dựng quy tắc giải bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của 2 số đó.
Bước 1: Vẽ sơ đồ 
Bước 2: Tìm tổng số phần bằng nhau 
Bước 3: Tìm giá trị một phần
	 Giá trị một phần = Tổng : Tổng số phần bằng nhau 
Bước 4: Tìm số bé 
	 Số bé = giá trị 1 phần x số phần của số bé 
Bước 5: Tìm số lớn 
	 Số lớn = giá trị 1 phần x số phần của số lớn 
	 Hoặc = tổng – số bé 
Nắm được quy tắc giải học sinh sẽ biết áp dụng để giải nhiều bài toán cùng dạng, học sinh giỏi sẽ biết áp dụng quy tắc để giải các bài toán khó dạng này (đó là các bài toán cùng dạng như  tổng, tỷ được thể hiện dưới dạng ẩn). 
	Ví dụ 1: 
	Hai đội xanh và đỏ có tất cả 45 quả bóng. Tính xem mỗi đội có bao nhiêu quả bóng. Biết 3 lần số bóng đội xanh bằng 2 lần số bóng đội đỏ. 
	Bước 1: Ta vẽ sơ đồ biểu thị 3 lần số bóng đội xanh = 2 lần số bóng đội đỏ. 
 2 lần đội đỏ: 
	3 lần đội xanh: 
 Nhìn vào sơ đồ ta thấy nếu chia số bóng của đội xanh thành 2 phần và chia số bóng của đội đỏ thành 3 phần thì các phần sẽ bằng nhau. Với tỷ số bóng 2 đội là 2/3. Ta có sơ đồ biểu thị số bóng của 2 đội. 
Đội xanh: 
	45 quả 
Đội đỏ: 
 	Bài giải:
Tổng số phần bằng nhau là:
2 + 3 = 5 (phần)
Số bóng ứng với một phần là:
45 : 5 = 9 (quả)
Số bóng đội xanh là:
9 x 2 = 18 (quả)
Số bóng đội đỏ là:
9 x 3 = 27 (quả)
Đáp số: 	Đội xanh: 18 quả 
	Đội đỏ: 27 quả 
4. DẠNG 4: TÌM HAI SỐ KHI BIẾT HIỆU VÀ TỶ CỦA CHÚNG: 
Bài toán: Tìm hai số tự nhiên biết hiệu của chúng là 27 và số này bằng 2/5 số kia. 
Học sinh phân tích để vẽ sơ đồ vừa biểu thị mối quan hệ về hiệu, vừa biểu thị mối quan hệ về tỷ số: 
Số lớn: 
Số bé: 	27
Dựa vào sơ đồ tiến hành tương tự như khi dạy dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó”. Học sinh tìm ra cách giải bài toán. 
Bài giải: Hiệu số phần bằng nhau là:
 5 – 2 = 3 (phần)
Giá trị 1 phần là: 27 : 3 = 9
Số bé là: 9 x 2 = 18
Số lớn là :18 + 27 = 45
Hay : 9 x 5 = 45
Đáp số : Số bé : 18 
 Số lớn : 45
Tổng kết thành quy tắc giải dạng toán tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó:
Bước 1: Vẽ sơ đồ 
Bước 2: Tìm hiệu số phần bằng nhau 
Bước 3: Tìm giá trị một phần
	 Giá trị một phần = Hiệu : Hiệu số phần bằng nhau 
Bước 4: Tìm số bé 
	 Số bé = giá trị 1 phần x số phần của số bé 
Bước 5: Tìm số lớn 
	 Số lớn = giá trị 1 phần x số phần của số lớn 
	 Hoặc = Số bé + hiệu 
 Nắm vững quy tắc giải học sinh cũng sẽ biết áp dụng để giải các bài toán nâng cao. 
 Việc dùng sơ đồ đoạn thẳng một lần nữa lại thể hiện vai trò vô cùng quan trọng vì sơ đồ chính là chỗ dựa giúp học sinh dễ dàng trong việc suy luận tìm ra cách giải. Ta có thể lấy một số bài toán sau đây làm ví dụ. 
Ví dụ: Hiện nay cha gấp 4 lần tuổi con. Trước đây 6 năm tuổi cha gấp 13 lần tuổi con. Tính tuổi cha và tuổi con hiện nay? 
Đây là một bài toán khó, học sinh sẽ lúng túng vì cả hiệu và tỷ số đều dưới dạng ẩn. Nhưng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng các em sẽ có số dựa vào suy luận và giải ra bài toán về dạng điển hình. 
Sơ đồ bài toán: 
Trước đây 6 năm: 
Tuổi con: 
 	Tuổi cha: 
 Hiện nay: 12 lần tuổi con trước đây 6 năm
	Tuổi con: 
	Tuổi cha: 
	 12 lần tuổi con trước đây 6 năm 
Theo sơ đồ, hiệu số tuổi của cha và con bằng 12 lần tuổi con lúc đó. 
Còn hiệu số tuổi của cha và con hiện nay bằng 3 lần tuổi con hiện nay.
Vì hiện nay không thay đổi nên 3 lần tuổi con hiện nay bằng 12 lần tuổi con trước đây. 
Ta vẽ sơ đồ biểu thị tuổi con trước đây và tuổi con hiện nay: 
Tuổi con trước đây: 
	6 năm 
Tuổi hiện nay: 
Bài toán được đa ra dạng cơ bản học sinh dễ dàng giải được: 
Bài giải:
Từ sơ đồ suy ra tuổi con trước đây là:
6 : (4 – 1) = 2(tuổi)
Tuổi con hiện nay là:
2 + 6 = 8 (tuổi)
Tuổi cha hiện nay là:
4 x 8 = 32 (tuổi)
	Đáp số: 	Cha: 32 tuổi 
	 Con: 8 tuổi 
5. DẠNG 5: DÙNG SƠ ĐỒ ĐOẠN THẲNG ĐỂ GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ DẠNG TRUNG BÌNH CỘNG:
 Dạng này thường được áp dụng ở toán nâng cao kiến thức cho HS. Khi sử dụng sơ đồ dạng này GV cần:
Bước 1: Liên hệ để HS thấy được sơ đồ dạng toán này cũng chia thành các phần bằng nhau mỗi phần bằng nhau chính là trung bình cộng của 2 số hay nhiều số.
Bước 2: Bắt đầu vẽ chi tiết trên sơ đồ để thể hiện sự tương quan giữa các đạ lượng của bài toán
Ví dụ: Lan có 20 nhãn vở, Mai có 20 nhãn vở, Anh có số nhãn vở kém trung bình cộng của 3 bạn là 6 nhãn vở
 Hỏi Anh có bao nhiêu nhãn vở?
 Với loại toán này nếu như không dùng sơ đồ đoạn thẳng để hướng dẫn HS giải toán thì HS sẽ rất khó hiểu tại sao trung bình cộng của 3 bạn lại chia cho 2 vì loại toán này là lấy tổng số chia cho số số hạng. Ở đây tìm trung bình cộng số nhãn vở của 3 bạn lại chia cho 2.
 Bước 1: Trực quan trên sơ đồ đoạn thẳng thì HS sẽ hiểu trung bình cộng số nhãn vở của 3 bạn là số nhãn vở của Lan và Mai bớt đi 6 với chia cho 2 là đúng.
 Bước 2: Căn cứ vào từ ít hơn hay nhiều hơn của bài toán và vẽ chi tiết trên sơ đồ để thể hiện các đại lượng của bài toán bằng cách ta lấy về phía phải hay trái của đoạn thẳng biểu hiện số trung bình cộng ấy.
 Bước 3: Từ đó tìm được trung bình cộng của 2, 3, số theo bài toán yêu cầu.
 Bước 4: Tìm kết quả bài toán dựa trên 3 bước đã thực hiện.
 Bài giải: Vẽ sơ đồ theo các bước sau:
Bước 1: Tổng số nhãn vở của 3 bạn:
Bước 2: Chia đoạn thẳng đó thành 3 phần bằng nhau. Và mỗi phần là trung bình cộng số nhãn vở của mỗi bạn:
TBC
Bước 3: Tìm đoạn thẳng biểu diễn số nhãn vở của từng bạn:
Anh
Số nhãn vở của Lan + Mai
 6 
Bước 4: Căn cứ vào sơ đồ đoạn thẳng để giải.
Ta có: Trung bình cộng số nhãn vở của 3 bạn là:
 (20 + 20 - 6): 2 = 17 (nhãn vở)
(Tìm giá trị của 1 phần bằng nhau - đó là trung bình cộng số nhãn của 3 bạn )
 Suy ra: Số nhãn vở của Anh là: 17 – 6 = 11 (nhãn vở)
6. DẠNG 6: DÙNG SƠ ĐỒ ĐOẠN THẲNG ĐỂ GIẢI MỘT SỐ BÀI TOÁN PHỨC TẠP CÓ TÍNH SUY LUẬN:
 Nhưng nếu không dùng sơ đồ đoạn thẳng để hướng học sinh giải toán dạng này mà dạy bằng phương pháp khác thì người thầy sẽ lôi cuốn vào giải thích dài dòng và dẫn tới HS khó hiểu bài.
 Dạng này thường được ra dưới dạng tính số người cùng biết hai hoặc ba sở thích.
 Ví dụ: Ở trường năng khiếu người nào cũng thích chơi bóng. Lớp 2 ở trường có 20 bạn HS nhưng có tới 13 bạn thích chơi bóng đá và 12 bạn thích chơi bóng bàn. Hỏi trong lớp có mấy bạn thích chơi cả hai môn. (Toán cơ bản lớp 3)
 Dùng sơ đồ đoạn thẳng thì sẽ có lời giải đơn giản hơn HS dễ hiểu hơn dùng sơ đồ tập hợp:
8 bạn 5 
7 bạn 
20 bạn
a> Sơ đồ tập hợp: bóng bàn
 Bóng đá 
Tổng số bạn thích bóng đá và số bạn thích bóng bàn là: 13 + 12 = 25 (bạn)
 Tổng số này lớn hơn số học sinh của cả lớp vì số bạn vừa thích bóng đá và thích bóng bàn được tính 2 lần. Vậy số bạn ấy là: 25 – 20 = 5 (bạn)
 b> Sơ đồ đoạn thẳng:
8 bạn
7 bạn
20 bạn
13 bạn
12 bạn
 Từ sơ đồ này ta sẽ phát huy được điều kiện để phát huy khả năng và óc sáng tạo của HS trong giải toán ( từ sơ đồ HS tìm được cách giải)
 * Cách 1: Số bạn thích chơi bóng bàn: 20 -13 = 7 (bạn)
 ( Biểu diễn 7 trên đoạn 12 bạn)
 Từ đây HS sẽ tính được số HS chơi được cả 2 loại bóng: 12 - 7 = 5 (bạn)
 * Cách 2: Số bạn thích chơi bóng bàn: 20 -12 = 8 (bạn)
 ( Biểu diễn 8 trên đoạn 13 bạn)
 Từ đây HS sẽ tính được số HS chơi được cả 2 loại bóng: 13 - 8 = 5 (bạn)
 Sơ đồ đoạn thẳng còn dùng để giải các bài toán về tuổi ở TH. Và dùng để giải các bài toán về Phân số và số thập phân nữa. Ở đây phạm vi có hạn tôi chỉ đưa ra 6 dạng sơ đồ điển hình. Mỗi sơ đồ có một kiểu dáng riêng, không kiểu nào trùng với dạng nào và mỗi dạng đều có cách giải hay riêng, giúp cho HS giải được nhiều dạng toán khác nhau ở TH và có khả năng phát huy tính tích cực sáng tạo của người học.
* Trong quá trình dạy học giải các bài toán có lời văn Giáo viên cần hướng dẫn học chu đáo, tỉ mỉ, chú ý hướng dẫn học sinh chú trọng đến các bước trong giải toán :
Bước 1: Tìm hiểu đề bài toán .
Bước 2: Tóm tắt đề bài toán.
Bước 3: Lập kế hoạch giải toán.
Bước 4: Trình bày bài giải bài toán.
Bước 5: Kiểm tra cách giải.
 Các bước nêu trên cần hướng dẫn kĩ học sinh từng bước một.
	 A/. Tìm hiểu đề bài:
	Đây là bước đầu tiên có vai trò lớn trong việc quyết định bài giải đúng, sai. Yêu cầu của bước này là học sinh phải hiểu kĩ nội dung của bài toán. Hiểu được kĩ được thể hiện là:
	+ Học sinh đọc được đề toán bằng lời văn của mình và giải thích các yếu tố cơ bản trong hình học. Những cái cần tìm, tức quan hệ giữa các dữ kiện, từ đó xác định được dạng giải các bài toán. .
	Để đạt được các yêu cầu trên người giáo viên có thể cho học sinh đọc đề bài một đến hai lần, vừa đọc vừa gạch chân những yếu tố quan trọng . Nếu trong bài toán có những thuật ngữ khó hiểu , giáo viên phải giải thích cho học sinh để tránh tình trạng hiểu sai nội dung bài toán. Đặc biệt khi giải các bài toán điển hình. Việc giải nghĩa các thuật ngữ quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp học sinh xác định dạng toán.
	Khi giúp học sinh tìm hiểu và phân tích bài. Giáo viên luôn tạo tình huống có vấn đề, thường sử dụng các câu hỏi như “ Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? Thuộc dạng toán gì?” ( Vẽ hình, xác định hình, tính diện tích, chu vi,....) Quá trình tìm hiểu lập kế hoạch giải toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi xác định các yếu tố trong bài toán cũng là lúc học sinh hình dung được phần nào kiến thức có thể sử dụng được, các thuật ngữ giải toán có liên quan. Nhiều trường hợp khi giải toán gặp tình huống khó khăn , học sinh phải trở lại việc tìm hiểu đề bài, phân tích điều kiện, dữ liệu.
	B/. Tóm tắt đề toán : Đây là bước thứ hai trong giải toán. Khi tiến hành giải toán học sinh phải tóm tắt đề bài, có hai loại tóm tắt, thường gọi là tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng có chia tỉ lệ hoặc không chia tỉ lệ.... việc tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng đã được học sinh làm quen từ lớp 1 nên giáo viên không gặp nhiều khó khăn lắm. Tuy nhiên có nhiều bài toán vẽ nhiều sơ đồ nhiều yếu tố hình học. Giáo viên cần tạo tình huống có vấn đề để các em làm quen và tìm ra sơ đồ biểu thị rõ nhất mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán.	
C/. Lập kế hoạch giải : Hoạt động tìm cách giải bài toán với việc phân tích các dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của toán . Nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. Hoạt động này diễn ra khi học sinh đã tóm tắt đề toán.
Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải toán . Xuất phát từ câu hỏi của đề toán và ngược lại những cái đã cho gọi là phân tích. Hình thức này tương đối dễ hiểu với học sinh.
Xuất phát các yếu tố của bài toán còn gọi là tổng hợp. Đối với học sinh ở tiểu học, việc hướng dẫn các em lập kế hoạch giải được thực hiện qua hệ thống câu hỏi và các tình huống giáo viên cần đặt ra.
D/. Thực hiện giải toán:
	 Sau khi lập kế hoạch giải, học sinh tiến hành giải các bài toán theo kế hoạch đã lập. Hoạt động này bao gồm việc thực hiện xác định các yếu tố hình học mà còn thực hiện các phép tính và trình bày các lời giải. Giáo viên cần chú ý nhắc nhở cho học sinh trình bày lời giải một cách mạch lạc, rõ ràng, khoa học .
 Đặc biệt khi giải các yếu tố hình học cần chú ý đến đơn vị số đo, hướng dẫn để các em không nhằm các đơn vị của phép toán.
 E/. Kiểm tra cách giải : Sau khi học sinh giải xong, giáo viên yêu cầu học sinh kiểm tra lại các yếu tố đã làm, tên các yếu tố hình, tên các đoạn thẳng...hướng dẫn cách sửa. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong dạy học hiện nay nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học giải toán, giáo viên cần tổ chức giờ học theo nhiều hình thức khác nhau như: dạy học theo lớp, dạy học theo nhóm hợp tác, dạy học cá nhân, dạy học bằng phiếu giao việc đồng thời thực hiện tốt phương pháp. Điều quan trọng là học sinh phải được hoạt động theo năng lực của chính bản thân mình và tìm ra cách giải tốt nhất.
	Ví dụ: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 120 kg thóc, ở thửa ruộng thứ 2 thu hoạch được nhiều gấp 3 lần số thóc ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi cả hai thửa ruộng thu hoạch được bao nhiêu kg thóc?
	Gợi ý cho học sinh tìm cách giải : 
	A/. Tìm hiểu đề bài : 
	Đọc bài toán ( tùy theo tình hình lớp có thể cho học sinh đọc tập thể, cá nhân, to, nhỏ, đọc thầm để nhận biết bài toán). Tạo tình huống để học sinh biết so sánh số thóc ở hai thửa ruộng, tìm số thóc ở hai thửa ruộng. .
	B/. Tóm tắt bài toán : 
	Học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
 Thửa thứ nhất : 
	 ? Kg 
Thửa thứ hai : 
C/. Lập kế hoạch giải: 
Xác định trình tự giải toán : 
+ Tìm số thóc ở hai thửa ruộng cần phải biết những yếu tố nào? (biết số thóc ở mỗi thửa là bao nhiêu kg ) 
+ Số thóc ở từng thửa ruộng đã biết chưa? ( biết số kg thóc ở thửa thứ nhất là 120 kg , còn số thóc ở thửa thứ hai chưa biết)
	D/. Trình bày giải bài toán : 
Số ki – lô – gam thóc thu hoạch ở thửa thứ nhất là : 
	120 x 3 = 360 ( kg ) 
Số ki – lô – gam thóc thu hoạch ở thửa thứ hai là : 
	120 + 360 = 480 ( kg ) 
Đáp số : 480 kg
	E/. Kiểm tra cách giải : 
Kiểm tra tóm tắt .
Câu giải lý .
Phép tính .
Cách trình bày bài toán .
 * Tóm lại: Để học tốt môn toán HS ngoài những yếu tố đã trình bày ở trên, bản thân GV cần tạo không khí vui tươi, nhẹ nhàng, sinh động trong giờ toán, kết hợp hướng dẫn HS tham gia vào các trò chơi học tập, cuộc thi nhỏ tùy nội dung từng bài mà có phương pháo giảng dạy phù hợp. Hay nói cách khác cần phải có thầy cô giáo trên bảng ở bất cứ phân môn nào và rèn chữ viết tốt cho học sinh thì việc “ Nâng cao chất lượng dạy toán có lời văn” mới đáp ứng nhu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục.
III / KẾT QUẢ 
 Là một giáo viên, vì sự nghiệp “ trồng người”, khi nhìn thấy các em học sinh trong lớp mình ngày càng tiến bộ tôi vui sướng vô cùng. Học sinh lớp tôi phụ trách không những làm đúng mẫu mà còn trình bày sạch đẹp. Kết quả không dừng lại ở giờ học toán mà học sinh còn học tốt các môn học khác. Do nắm được vai trò quan trọng của việc học toán nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ học.
IV / BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
 Từ việc áp dụng những kinh nghiệm trên, tôi bắt đầu thành công trong việc: “Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn” qua các giải pháp song tôi nhận thấy bài học thành công của tôi trong việc nghiên cứu này và trong quá trình làm toán lớp tôi dạy và đội tuyển thi “giải toán trên mạng” chủ yếu :
- Hiểu nguyên nhâm cần phải tìm hiểu ở sự chuẩn bị tâm lý cho học sinh trước khi các em đến trường và quá trình tổ chức giảng dạy – giáo dục học.
- Mỗi thầy cô phải có những biện pháp tích cực tạo điều kiện để các em thích nghi với nề nếp nhà trường.
- Việc học sinh đến trường để học làm người phải trở thành một quan điểm thống nhất, chủ đạo, không thể khác được.
- Giáo viên và gia đình cần phải thông nhất yêu cầu giáo dục trẻ. Thường xuyên kiểm tra liên tục và nghiêm ngặt những yêu cầu nhà trường đề ra.
- Giáo viên luôn có ý thức học hỏi ( sách báo, đồng nghiệp...) để mở rộng hiểu biết, từ đó giải quyết khó khăn trong quá trình công tác. Việc khắc phục những nguyên nhân cơ bản cùng với sự yếu kém của bản thân nhiều học sinh đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, thống nhất giữa gia đình và nhà trường.
- Mỗi giáo viên không nên bằng lòng khi thấy học sinh thực hiện quy định nề nếp chỉ trong một giờ học mà những hành vi và thái độ cần được củng cố và phát huy. 
- Giáo viên cần lựa chọn phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học phù hợp để tổ chức các hoạt động trong tiết học theo một quy trình hợp lý nhằm đảm bảo cho giờ học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên. Vì vậy trong việc dạy học sinh hình thành kĩ năng cần phải tính đến các yếu tố cảm xúc- tâm lí chi phối. Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo. Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức như: tổ chức trò chơi, sưu tầm tranh ảnh, đồ dùng để phục vụ bài học. Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ trong việc “Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn”.
- Học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện được các động tác đòi hỏi sự khéo léo, cần thận. Để giúp học sinh khắc phục được những đặc điểm trên giáo viên phải có đức tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công. 
 - Dạy học là một nghệ thuật, nghệ thuật ấy đạt đến đỉnh cao khi người giáo viên dạy cho học sinh cách học một cách sáng tạo, muốn vậy phải khai thác hết tiềm năng của các em. Hãy hướng dẫn các em nghiên cứu bài học bằng cách xem trước bài và ghi lại những thắc mắc, những điều chưa lí giải được để đến lớp với những câu hỏi có sẵn trong đầu.
 - Để thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy định hướng cho học sinh học tập theo hướng tích cực đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh sư phạm. Bởi vì không chỉ dạy cho học sinh đơn thuần mà đòi hỏi phải luôn tạo được tình huống để phát hiện vấn đề, hiểu bản chất vấn đề. Nắm vững bản chất của vấn đề, nắm vững bản chất quan trọng của vấn đề và tự mình vận dụng để giải quyết vấn đề, dần dần nâng cao trình độ giải toán cho học sinh đạt đến kĩ xảo.
	- Toán học cũng là môn thể thao trí tuệ, hãy tổ chức cho các em “chơi” một cách sáng tạo, để tìm ra những điều lý thú trong đó. Như vậy có nghĩa với mỗi bài chúng ta không nên dừng lại ở việc tìm ra các yếu tố mà phải tìm ra cách giải hay nhất, diễn đạt nội dung của bài toán.
Cần phân hóa trình độ, đối tượng học sinh có thể phân hóa như sau:
+ Đối với học sinh yếu: tạo tình huống để các em tri giác nhận dạng bài tập.
+ Đối với học sinh trung bình: có thể giúp các em nhận diện các bài tập hình học qua việc phân tích đặc điểm các dạng bài tập hình học qua việc phân tích đặc điểm dạng bài tập bằng con đường trực giác, nhận dạng góc, cạnh,... 
+ Đối với học sinh khá: ở trình độ này đã có thể thực hiện được các bài tập.
+ Đối với học sinh giỏi: Các em nhận dạng bài tập một cách nhanh nhẹn thực hiện tư duy trừu tượng. Tự đặt câu hỏi gợi mở vấn đề trong các bài tập dần đần tiến tới xây dựng hệ thống tư duy suy diễn trừu tượng.
	Sau khi đã phân hóa đối tượng cần tổ chức đa dạng phong phú giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và thành thạo kĩ năng. Điều này có nghĩa là phải tổ chức cho học sinh hoạt động một cách tích cực, học sinh là người tham gia vào các hoạt động ấy, chúng tự tìm tòi, tự đọc sách, cách lấy thông tin, cách phân tích và hiểu thông tin .
	Những câu hỏi , những tình huống của giáo viên có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với học sinh, làm cho học sinh hứng thú, tò mò. Học sinh tìm hiểu câu trả lời cho đúng, tạo niềm tin chiến thắng cho các em.
Đặt câu hỏi mà học sinh có thể trả lời được .
Đặt câu hỏi cho học sinh có đủ thời gian trả lời. 
Đặt câu hỏi kết hợp ngôn ngữ cử chỉ .
Khen ngợi đúng lúc .
Ghi nhận câu trả lời đúng .
Tránh học sinh ngại ngùng với câu hỏi .
Nếu câu hỏi quá cao, nên đặt những câu hỏi phụ đơn giản hơn nhằm gợi mở cách trả lời .
Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng .
 Phân phối tình huống đều đến cả lớp.
- Giáo viên là người có uy tín tuyệt đối, sử dụng đúng đắn uy tín của mình giáo viên sẽ hình thành nhanh chóng thói quen chấp hành tốt nề nếp học sinh, tính tổ chức kỉ luật, kĩ năng điều khiển hành vi chú ý của học sinh , có như thế kết quả học tập mới cao.
- Giáo viên luôn là tấm gương sáng ở mọi nơi, mọi lúc cho học sinh noi theo và học tập. Mỗi giáo viên cũng phải tự rèn luyện tư duy của mình sao cho thật mẫu mực khi chấm và ghi lời nhận xét vào bài làm, bài kiểm tra của học sinh, khi ghi sổ liên lạc cũng như khi viết bài.
Tôi tự nhận thấy rằng mặc dù đã bỏ ra nhiều tâm sức vào công việc này để giáo dục học sinh. Nhưng do năng lực và trình độ có hạn, khiếm khuyết là điều khó có thể tránh khỏi. Rất mong sự góp ý chân thành của quý ban, các thầy cô giáo và các đồng chí, các bạn bổ sung những ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện tốt hơn nữa trong quá trình học tập - giảng dạy và giáo dục học sinh trong những năm học tới.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2017

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_nang_cao_chat_luong_su_dung_so_do_doan_tha.docx